jeudi 15 janvier 2009

ĐỈNH CAO CHÓI LỌI (5) - Au Zénith- Dương Thu Hương

ƯỚC NGUYỆN CUỐI CÙNG

- Keeng keeng keeng keeng....

- Keeeng keeng keeng keeng keeng....

Thanh tà-vẹt treo trên cây sấu đung đưa một cách bạo liệt. Gã trai to lớn, vẻ thô kệch và hung dữ, hẳn là vừa được tuyển từ công trường xẻ đá hay trạm cưa gỗ về đang ra sức gõ cây búa đại lên tấm tà-vẹt để báo hiệu giờ ăn sáng. Cái dụng cụ thô kệch này xem ra hữu dụng bởi tiếng kẻng ngân nga vang dội khắp các khu nhà bệnh viện, có lẽ chỉ thua có tiếng còi xe cứu hoả mà thôi.

Khi tiếng kẻng dứt, cũng là lúc xe chở thức ăn sáng cho bệnh nhân từ phía đầu hành lang tiến đến. Từ các phòng, đám người chăm sóc bệnh nhân lục tục xách cà-mèn hay tô đĩa ra nhận phần ăn sáng cho người thân; Vũ lặng lẽ quan sát họ, cái xã hội thu nhỏ, nơi chiến trường giữa sự sống và cái chết, nơi sợ hãi đau khổ lẫn hy vọng nhào trộn, trở nên nhù nhoà mờ nhạt với tháng năm, nơi đa phần con người sống như sự thực hành đơn giản một thói quen.

"Nhưng đâu chỉ đám người vô danh tá túc trong những dãy nhà ngột ngạt này chấp nhận kiểu sống như vậy? Ngay cả những kẻ thông minh trác tuyệt, hoặc ít nhất cũng đã từng được coi như kiểu mẫu của sự sáng suốt, của tính chính trực và tinh thần tự trọng cũng nhiều phen chấp nhận cuộc sống tầm thường như đám đàn bà quê mùa đang chen chúc nhau quanh xe thực phẩm kia.

Đương nhiên, họ chẳng cần dán mắt hau háu nhìn vào cái muôi đang khuấy nồi cháo thịt, hoặc đo đếm xem xuất bánh cuốn cô hộ lý chia cho mình có đủ tám chiếc hay chỉ có bảy chiếc thôi. Đương nhiên, họ cũng không đau khổ vì thiếu một chiếc chăn mùa đông hay thiếu vài đồng đưa cho con lên đường ngày nhập ngũ. Nhưng xét một cách thực sự, họ cũng chỉ sống đúng như những cái máy thao tác những động tác đã đưa sẵn vào lộ trình, hoặc đúng hơn, như những con rối múa may theo các tích tuồng viết sẵn."

Vào buổi sáng được tin cô Xuân bị giết, ông đã tới gặp những con người được coi là "kiểu mẫu lương tâm". Lúc đó, chưa đến giờ làm việc nên ông cho xe phóng thẳng đến nhà riêng của họ. Trước tiên, ông lên gặp thủ tướng Tô. Ông không phải chờ một phút vì chính ông ta cũng đã thức dậy, quần áo chỉnh tề ngồi trong phòng làm việc. Trước mặt là tách cà-phê và cuốn "Đại Việt sử kí toàn thư", cuốn sách mà lần nào tới cũng thấy đặt trên bàn. Cuốn sách kinh niên ấy đang mở và chủ nhân đang đọc sách một cách chăm chú đến mức mặt cúi gằm xuống gần như sát vào trang giấy. Khi Vũ bước vào, ông ta vội vã đứng lên, nhưng không phải để bắt tay ông theo phép lịch sự mà là để đóng chặt hai cánh cửa phòng. Lúc quay lại, gương mặt ông ta đầm đìa nước mắt.

- Anh...

Vũ vừa cất lời, thủ tướng đã vội xua tay ra hiệu cho ông im tiếng. Rồi ông ta nhắm mắt lại và những dòng nước mắt tuôn chảy không ngừng từ cặp mắt nhắm nghiền ấy. Cầm lòng không đậu, Vũ cũng khóc theo. Cứ như thế, cả hai cùng khóc. Thủ tướng đứng tựa lưng vào cửa còn ông đứng ngay giữa phòng. Hai người đàn ông đối diện nhau, không thốt một lời, không phác một cử chỉ, không làm gì hơn là đầm đầm trút lệ. Họ cùng khóc như những người đàn ông khác cùng uống trà hay cùng nhâm nhi ly rượu. Khóc một cách thầm lén, ghìm giữ nhấn nuốt tiếng nức nở vì sợ lính gác ngoài hành lang nghe thấy. Họ khóc, trong sự tự kiểm soát và trong im lặng. Chính lúc ấy, ông hiểu thế nào là đau khổ và nhục nhã. Những dòng nước mắt lai láng của họ vừa là để tiếc thương cho một kiếp hồng nhan bạc mệnh vừa là cơn thổ lộ những nhức nhối trong tâm can. Một gã đàn ông bất lực thảm hại hơn mười lần một người đàn bà yếu đuối. Bởi nó sinh ra để làm đàn ông, sinh vật tượng trưng cho sức mạnh và quyền uy. Một bậc nam nhi bất khả hành động, chỉ biết dìm cay đắng hay uất hận trong nước mắt nào khác chi đứa trẻ lên năm? Có lẽ vì ý thức được điều đó nên ông ngẩng lên trước tiên, lau mặt. Trong khi đó, thủ tướng vẫn tiếp tục khóc, những ngón tay dài và mảnh che khuất gương mặt chữ điền. Vũ chú ý đến những ngón tay ấy bởi người ta thường gọi kiểu tay ấy là tay búp tháp. Những ngón tay ấy run rẩy từ gốc lên ngọn, giống hệt những cọng lau run rẩy trước cơn gió dữ:

"Phải chăng vì bản chất thư sinh nên ông ta bị áp chế và biến thành một thứ búp-bê thông thái trong bộ máy quyền lực này?..."

Vũ nghĩ hoài điều đó trong khi chờ thủ tướng ngớt cơn xúc động. Tô đã khóc rất lâu, từ rất lâu trước khi ông bước vào phòng. Cuốn "Đại Việt sử kí toàn thư" mở ra là để hứng những dòng lệ tuôn như suối. Hai trang sách phồng rộp lên từng đám vì ngấm nước:

"Ông ấy không chỉ khóc cho cô Xuân. Ông ấy khóc cho cả bản thân mình. Chắc chắn là như thế !"

Vũ bước đến, đặt tay lên vai thủ tướng thay cho lời chào trước khi quay ra:

"Ta sẽ chẳng kiếm được một chút cỏn con sự trợ giúp nào từ con búp-bê thông thái này, ngoài những dòng lệ sướt mướt. Cái dinh thự nguy nga trước mắt ta chỉ là một toà nhà vô vọng...Nhưng ta cũng chẳng thể buông xuôi tay...Còn nước còn tát".

Xuống đường, ông bảo lái xe:

- Bây giờ chúng ta tới nhà đồng chí phó bí thư. Giờ này hẳn đồng chí ấy chưa đến phòng làm việc.

- Vâng. Còn một tiếng rưỡi nữa mới tới giờ hành chính.

Người lái xe lượn trở lại đường Hoàng Diệu, con phố nổi tiếng vì là nơi cư trú của các bậc "Lương đống triều đình". Hai hàng cây bên hè đứng im như hoá đá trong sương lạnh. Vũ bảo người lái xe dừng lại nơi ngã ba cho ông xuống rồi anh ta có thể tự do vào phố tìm quán điểm tâm. Đoạn, ông thả bộ đến nhà phó bí thư Thuận. Ngôi nhà này vốn dĩ đã là biệt thự kiên cố của một quan chức Pháp. Nhưng ban quản trị trung ương đảng lại sửa chữa cho thêm phần an toàn. Họ thay thế hàng rào bằng tường kín, cho xây thêm cổng phụ và chòi canh khiến cho người đứng ngoài nhìn vào, có cảm tưởng đây là nhà tu kín hay kho vũ khí. Vũ dừng lại trước thanh chắn cổng đồ sộ, sơn khúc trắng khúc đỏ như kiểu các thanh chắn nơi bến ga bến tàu. Một ổ khoá to hơn bàn tay treo lủng liểng nơi cổng chính. Chưa đến giờ mở cổng chính nhưng người lính gác đã nhìn thấy ông, vội bước ra chào rồi mở cánh cổng phụ cho ông bước vào. Đoạn anh ta lại chui vào chòi gác, nhìn theo. Vũ cảm thấy cái nhìn đó dính vào lưng ông. Sự xui khiến của linh giác báo cho ông rằng từ nay, bất cứ nơi nào ông đặt chân tới đều bị kiểm soát một cách chặt chẽ bởi những cặp mắt người trần cũng như những ống kính được nguỵ trang:

"Ta không ngờ tình thế đến nỗi này. Nhưng đã muốn chơi thì chấp nhận chơi. Xem chúng bay làm gì được ta?"

Bản tính Vũ hiền lành nhưng khi bị thách thức ông đột nhiên trở thành lì lợm. Ông bước thẳng đến toà biệt thự. Lúc đó, chủ nhân cất tiếng ông gọi từ khu vườn bên trái:

- Tôi ở đây. Vũ ơi.

- A.

- Tôi ở đây cơ. Cậu không thấy những luống hồng vàng đang nở rộ à? Lại đây. Đợt hoa này chỉ kéo dài vài tuần lễ thôi mà giống hồng này đặc biệt quý hiếm và khó chăm sóc.

Thuận đang đứng trong vườn, mặc bộ pi-ja-ma xanh da trời sọc trắng. Quả thật trước mặt ông ta là một vườn hồng vàng đang nở rộ. Những cánh hồng mướt mịn như nhung mỏng. Màu vàng của chúng chung chiêng giữa vỏ chanh chín với lòng đỏ trứng gà. Một thứ màu nhẹ nhàng mơ ảo. Một thứ màu phơn phớt như hồ nghi, như có thể bay lên tựa cánh chuồn cánh bướm, như có thể bốc hơi tựa làn sương.

Giá như ở hoàn cảnh bình thường, cảnh tượng thật đáng chiêm ngưỡng. Nhưng lúc ấy, mọi vẻ đẹp đều khiến ông sôi máu:

- Vườn nhà anh đẹp thật. Hoa hồng nhà anh tuyệt thật.

Vũ vừa nói vừa tiến lại phía chủ nhân với nụ cười:

- Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một vườn hồng tươi đẹp nhường này. Thiên thai cũng chỉ đến thế mà thôi. Trên đời này dễ mấy ai được hưởng?

Thuận im lặng trước câu nói không che đậy vẻ khiêu khích lẫn sự móc máy chua chát. Ông ta tiến đến phía Vũ, chìa tay ra bắt rồi hạ giọng thì thào:

- Tôi đứng ở đây là để chờ cậu. Không cần gây sự với tôi. Chúng ta đi về phía cuối vườn để có thể nói chuyện một cách an toàn.

Họ đi song song hai bên luống hồng và tiến về phía cuối khu vườn, nơi các luống hồng bị ngăn lại bởi một hàng diên vĩ. Dãy cây này viền quanh một vạt đất chạy dọc chân tường lan sang tận khu vườn đối diện tạo thành hình chữ L. Vạt đất ấy trồng cỏ kim. Hai người đứng giữa đám cỏ xuân xanh rờn. Nếu không cất lời, có thể nghe rõ tiếng gió thì thào trong đám cây dâu da nơi góc tường vọng lại.

Đưa mắt nhìn quanh, Thuận gật gù:

- Ở đây, cây sậy thành Ba-tư không mọc được.

Rồi quay sang Vũ, hỏi:

- Ai báo tin cho cậu sáng nay?

- Một giọng nguỵ trang, vẻ như bịt mũi hay bị ốm. Còn anh?

- Cũng chính cái giọng ấy báo tin cho tôi, vào lúc chưa đầy năm rưỡi.

- Với tôi, cũng chính vào giờ ấy.

- Theo cậu, ai là kẻ có thể báo tin này cho chúng ta, với cái giọng méo mó một cách cố tình như vậy? Sao anh lại hỏi tôi? Anh là uỷ viên bộ chính trị, phó bí thư đảng. Nói theo kiểu ngày xưa, anh là một trong tứ trụ triều đình. Còn tôi? Tôi chỉ là một gã loèn quèn, đứng dưới anh không biết bao nhiêu cấp ngạch; nếu hiểu một cách thuận lý, chính tôi mới là người được quyền hỏi anh.

Thuận im lặng thở dài, ông ta cúi nhìn thảm cỏ kim dưới chân như muốn tìm trong những lá cỏ li ti kia lời giải đáp. Lát sau, ông ta giãi bầy một cách chậm rãi:

- Tôi biết tôi có lỗi, bởi chính tôi là người cam kết bảo đảm an toàn cho ba mẹ con cô Xuân trong phiên họp quyết định của bộ chính trị về vấn đề này.Tôi không ngờ cơ sự xảy ra.

- Anh không ngờ? Hay là anh có ngờ nhưng anh buông tay cho kẻ khác hành động?

Thuận ngước lên nhìn ông:

- Tôi cũng là con nhà có dạy, được học hành tử tế, Vũ ạ. Bởi thế, tôi xin cậu đừng đổ ngờ cho tôi những điều bỉ ổi như vậy. Nếu không vì tôi thì ít nhất hãy vì lòng khoan dung trước vong linh những người sinh trưởng ra tôi. Họ đều là những người tử tế. Tôi không nói dối, trước hết, với một người như cậu.

Giọng ông ta rung động và hai cánh mũi dầy thịt của ông ta bắt đầu hoe hoe đỏ. Vũ biết rằng ông ta nói một cách chân thành và sự thành thực ấy rụi bớt một phần ngọn lửa căm giận đang cháy phừng phừng trong tim ông.

Thuận tiếp tục:

- Lỗi của tôi chính ở chỗ tôi không học được chữ ngờ. Tôi không dò nổi những ngóc ngách tối tăm trong tâm địa con người. Tôi vẫn nghĩ như hồi còn sống trên chiến khu: khi bộ chính trị đã đồng lòng thì mọi việc cứ thế tuần tự như tiến, chẳng cần suy tính. Sự việc này khiến tôi ngã ngửa người. Thế cờ đã đổi, thời cuộc đã thay mà tư duy của tôi vẫn giản đơn như những năm quá khứ.. Giờ, sự đã rồi, tôi biết làm sao?

Vũ tức khắc ngắt lời:

- Sự đã rồi và giờ đây anh thở than rằng biết làm sao? Nói nghe đơn giản thật! Này anh Thuận, hãy cố gắng đặt mình vào địa vị của người khác, dù chỉ một lần. Lúc này, anh đang đứng nói chuyện với tôi. Nhưng lát nữa, chỉ cần bước chưa đầy một trăm bước chân là vào đến ngôi nhà lộng lẫy kia, trong đó nào vợ nào con nào cháu nội cháu ngoại....cả một bầu đoàn đông đúc. Trong cái bầu đoàn ấy, chẳng ai phải chịu cảnh cô đơn trơ trọi, cũng chẳng đứa bé nào rồi đây sẽ phải chịu cùng một lúc kiếp mồ côi lẫn kiếp lưu đầy. Những đứa trẻ bị lưu đầy trên chính quê hương mình.

Lảng tránh cái nhìn xoi mói và phẫn nộ của anh, Thuận đưa mắt nhìn cụm dâu da nơi góc tường tiếp giáp cổng chính, hạ giọng:

- Tôi biết rằng tôi có lỗi với ông cụ.

- Anh nghĩ gì về con người đó? Giờ đây ông cụ sẽ sống ra sao khi chính những kẻ vẫn mệnh danh là anh em đồng chí giết hại người ruột thịt của mình? Hay các anh, mười hai con người quyền lực nhất nước này cho rằng ông cụ không phải là con người mà chỉ là gỗ đá? Vì rằng chính anh là người đầu tiên và người can thiệp quyết liệt nhất để bãi bỏ đề nghị công khai hoá quan hệ của anh Cả với cô Xuân. Vì rằng ý kiến của anh có tính chất quyết định, có sức mạnh thuyết phục thậm chí khống chế nhiều người khác. Tôi đã hỏi kĩ anh Tô về cuộc họp ấy.

- Tôi biết rằng cậu đang vô cùng căm giận, chẳng những riêng tôi mà tất cả những ai bãi bỏ mối quan hệ này. Nhưng thực tình, chúng tôi hành động chỉ vì quyền lợi của dân tộc, và cũng vì uy tín của chính ông cụ.

- Tôi đã nghĩ mãi về cái điều mà các anh thường gọi là uy tín của cán bộ lãnh đạo, là thần tượng hay hình ảnh người dẫn đường cho nhân dân. Tôi thấy đó là thứ lý thuyết kì cục và khiên cưỡng. Cuộc đời này đầy rẫy những người đàn ông lớn tuổi yêu đương say đắm những người đàn bà trẻ hơn mình. Không chỉ trong hàng vua chúa mà trong cả đám dân đen. Nếu tôi không nhần ngay ông nội anh cũng có một nàng hầu hai mươi tuổi khi ông cụ đã bảy mươi hai. Điều này là thực hay là bịa?

- Điều đó là thực, dù ông nội tôi chỉ là chánh tổng. Tôi vẫn nhớ hình ảnh ông cụ ngủ trưa, gối đầu lên đùi người đẹp hai mươi tuổi đó và nàng ta phe phẩy quạt hầu. Tôi cũng nhớ rằng bà nội tôi ăn cơm với hai người trên nhà chính còn gia đình chúng tôi ăn cơm riêng ở nhà ngang. Tôi cũng nhớ rằng nàng hầu này lảy kiều rất hay và khi ông tôi hứng lên thường yêu cầu chị ta hát chầu văn phục vụ khách khứa..Tất cả đều rất thực, Vũ ạ. Nhưng riêng với anh Cả, sự đó không thể chấp nhận vì ông cụ không thể chỉ sống riêng cho bản thân. Ông cụ là kim chỉ nam, là ngọn đuốc soi đường cho cả dân tộc.

- Vì là ngọn đuốc soi đường nên ông cụ buộc phải thiến như đám hoạn quan thời xưa hay buộc phải sống chui lủi như kẻ buôn lậu? Cái trò này chính các anh đã đặt bầy. Khởi sự từ việc cử cô Minh Thu vác chiếu vác chăn đến ngôi nhà sàn trên chiến khu. Nếu bây giờ, tổ chức đảng yêu cầu anh lấy cô Minh Thu thay vì người đàn bà mà anh đang chăn gối, anh tính ra sao?

Thuận im lặng. Ông ta lại cúi xuống tiếp tục nhìn chăm chú thảm cỏ dưới chân. Một đám diệp lục mềm mại tựa lông nhung và trông ngon lành như có thể ăn được.

Vũ tiếp tục:

- Tôi không hiểu nổi danh từ đồng chí hay chiến hữu mà các anh nói như hát trên đầu lưỡi. Thực tình, tôi không hiểu. Từ xưa đến nay, loài người liên kết được trước hết là nhờ sự cảm thông. Đám chúng sinh thấp cổ bé họng cũng biết nói câu: "Ai cũng xương cũng da, dao cắt vào thịt nào cũng chảy máu". Người theo đạo Phật ắt biết câu nói nổi tiếng của Thích ca: "Máu ai cũng đỏ và nước mắt ai cũng mặn" Đạo Thiên chúa cũng dậy con người chớ gây cho kẻ khác điều mình không muốn. Dù tôn giáo phương tây hay phương đông, con người đều được học cách cư xử như vậy. Huống chi các anh, những kẻ tự coi là tinh hoa của dân tộc, là lớp người có đủ thông minh lẫn can đảm, nòng cốt của một đảng bách chiến bách thắng? Trở lại chuyện gia đình anh Cả, tôi cần nhắc anh nhớ lại một trường hợp tương tự trong lịch sử, đó là chuyện tình giữa Nguyễn công Trứ với người vợ ba của ông. Vị quan lớn đa tình và đa tài này từng nói một câu nổi tiếng: "Ngũ thập niên tiền...

Thuận gật đầu, đọc tiếp:

- "Ngũ thập niên tiền, nhị thập niên" Năm mươi năm về trước ta là chàng trai hai mươi tuổi. Đấy là cách diễn đạt hết sức khôn ngoan dí dỏm với bạn tình...Ngay với mối tình lãng mạn ấy, Nguyễn công Trứ vẫn là một gương mặt hiển hách trong lịch sử. Chuyện đó nữa, tôi cũng có nhớ, Vũ ạ, chỉ có điều là ...

- Chỉ có điều là ...sao?

- Có điều là chính ông cụ cũng chấp nhận sự hy sinh ấy. Chính ông cụ cũng không phản bác.

- Trên nguyên tắc biểu quyết, một mình ông cụ không thể thắng nổi mười hai người. Nói cho thật cặn kẽ chỉ một mình anh Đô muốn ủng hộ ông cụ. Nhưng sau rốt bị đám đông uy hiếp nên anh ta đành đổi hướng theo các anh. Như thế, về lý, ông cụ là tuyệt đối thiểu số. Còn về chữ tình, không nói cũng hiểu rằng ông cụ trông mong ở sự thông cảm của các anh, những người xưa nay vừa là đồng chí vừa là đàn em. Từ ngày khởi đầu cách mạng cho đến lúc này, mọi sự vẫn diễn ra như vậy. Có điều ông cụ không nhận ra rằng tình thế đã đổi thay. Rằng những ngày xưa thân ái đã chết rồi. Và nó đã bắt đầu chết một cách thật sự ngay khi các cánh quân rời bỏ núi rừng để tiến về năm cửa ô thành phố. Rằng giờ đây tất cả anh em đồng chí chỉ còn là đám người buôn chung một món hàng trên một con tầu vượt đại dương mà vì tiền lời của món hàng đó, các anh có thể quẳng xuống biển bất cứ kẻ vô tội nào cho nhẹ gánh. Rằng trước mắt các anh, ông cụ chẳng còn là bậc huynh trưởng thân thiết mà chỉ đơn thuần là con vật hiến tế cho vị thần cách mạng. Cuộc cách mạng này trước hết đem lợi nhuận cho các anh, những kẻ toạ hưởng kì thành. Điều ấy tôi nói sai hay đúng?

Thuận không trả lời, ông ta đứng như bức tượng, dán mắt vào mũi giầy, loại giầy hở gót đi trong nhà, bằng da bò đột lỗ. Vũ cúi nhìn đôi giầy yểu điệu ấy và không hiểu vì đâu nó khiến cho ngọn lửa trong lòng ông bỗng nhiên bốc cao như được tưới dầu:

- Anh là người nhiều chữ nhất trong số mười hai nhân mạng ở bộ chính trị. Anh thông thạo cả tiếng Tàu lẫn tiếng Pháp, anh thuộc làu kinh điển cổ lẫn kim. Anh thừa biết rằng nếu ông cụ lấy cô Xuân thì cũng chỉ là đàn ông một vợ đàn bà một chồng, chưa đến mức đa thê như quan thượng thư Nguyễn công Trứ. Hãy trả lời cho tôi rõ, tại sao Nguyễn công Trứ có thể mà ông cụ thì không? Đã bao giờ anh tự đặt câu hỏi này chưa?

- Chưa bao giờ tôi nghĩ đến điều này.

Thuận thú nhận một cách chậm rãi, dường như vừa nói vừa nhai mỗi lời vừa thốt ra khỏi miệng:

- Thành thực mà nói, đúng là tôi chưa từng nghĩ tới điều này.

- Vậy thành thực mà nói, anh nghĩ tới điều gì? Cái gì chứa chất trong sọ não của các anh, những kẻ tự xưng là đàn em thân thiết của ông cụ?

Thuận không đáp.

Vũ cảm thấy một cách vô cùng chân xác dòng thác lửa đang cuồn cuộn chảy. Một dòng thác lửa. Chúng sắp nhấn chìm ông , sắp biến ông thành tro than. Và cùng với ông, những kẻ liên đới. Ý muốn tàn sát thiêu huỷ khởi dậy trong tâm hồn ông. Ông nhìn thấy cơn ham muốn đó nở phình ra như trái bóng bơm căng. Một ham muốn điên cuồng:

"Ta phải chạy khỏi nơi đây. Ta phải đi ngay cho khuất mắt. Ta không thể chịu đựng được cái gã mặc bộ đồ pi-ja-ma sọc và đi giầy hở gót này. Cái gã đàn ông đang nhởn nhơ thở hít vườn hồng ngào ngạt của y."

Vũ thầm nghĩ. Cố gắng dằn cơn thù hận, ông nói:

- Tôi phải về, vì còn hai đứa con ông cụ. Tôi báo cho anh biết trước nếu anh không tức khắc ngăn chặn, lũ côn đồ sẽ tiếp tục ra tay và sinh mạng hai đứa trẻ phải tiêu vong. Lúc ấy, e rằng chính anh cũng không sống nổi nếu anh vẫn còn có lương tâm, cho dù một mảy lương tâm rơi rớt..

- Này Vũ...

Thuận không tỏ ra một chút bực dọc. Ông ta vẫn cúi xuống, dán mắt vào vườn cỏ như muốn tìm một thứ trợ giúp tinh thần hoặc một niềm an ủi trong những lá cỏ xanh:

- Tôi biết cậu giận tôi lắm. Cậu chưa đến mức căm thù hay manh động đã là may. Bởi ai cũng biết cậu là người gắn bó nhất với ông cụ trong đời sống tình cảm. Rằng hồi ở chiến khu chính cậu đã sang bên thành đoàn để gặp gỡ cô Thanh Tú. Cũng chính cậu can thiệp để cô Minh Thu thôi vác chăn vác chiếu đến ngôi nhà sàn. Rồi cũng chính cậu dẫn cô Xuân đến nơi ấy. Rằng cậu là người duy nhất mà cô Xuân tin cậy và phó thác tổ chức cuộc đời. Rằng cậu cũng là người duy nhất mà ông cụ có thể nói mọi chuyện một cách không kiêng dè, không ý tứ. Chúng tôi chưa quên những cuộc gặp gỡ tay đôi. Chỉ cần nghe tiếng cười của hai người là đủ hiểu mối thâm tình đến đâu. Ngày ấy, chúng tôi thầm cảm ơn trời đất đã giun rủi cho ông cụ gặp người đàn em chung tình hợp ý. Vì chúng tôi ai nấy đều bận bịu gia đình riêng, chỉ có cậu tự nguyện chia xẻ thời gian cho ông cụ mà thôi. Chúng tôi cũng biết rằng chính vì mối thân tình đó mà cậu phải chịu thua thiệt bởi ông cụ giữ ý, chẳng bao giờ đề nghị một ưu đãi, thậm chí một thăng tiến ngoại lệ. Phần cậu, cậu cũng lại e dè vì mối thân tình ấy nên lặng lẽ chấp nhận mọi thiệt thòi. Sự hy sinh ấy buộc chúng tôi dù muốn hay không cũng phải tôn trọng cậu. Nhưng về phần tôi, tôi cũng đề nghị cậu cảm thông, nếu điều ấy là khả thể. Quả tình, tôi không ngờ sự việc diễn tiến theo chiều hướng xấu xa này. Quả tình, tôi chỉ muốn ông cụ giữ quan hệ riêng trong bóng tối để có thể bảo đảm tuyệt đối hình ảnh vị cha già dân tộc, vị gia trưởng dành toàn bộ tâm tình và nhiệt huyết cho đại gia đình tổ quốc. Tôi tin rằng việc sắp xếp của mình là thuận lý. Chính tôi đề nghị ông cụ khuyên cô Xuân chấp nhận sống ở căn gác hẹp khu phố cổ như một lương dân. Bởi tôi tin rằng tấm gương giản dị ấy khiến cho ông cụ có nhiều uy tín hơn với anh em.

- A ! Chính là anh? Chính anh là người quyết định việc này?

Vũ cất tiếng kêu kinh ngạc:

- Vậy mà tôi đã cãi cọ không biết bao nhiêu lần với văn phòng quản trị trung ương đảng. Cũng hẳn là vì lẽ đó mà họ phải nín nhịn trước những lời sát phạt của tôi. Giờ tôi biết anh mới chính là thủ phạm còn họ chỉ là những kẻ đi đổ vỏ ốc.

Ông ngừng lại một khoảnh khắc để chắp vá lại những mảnh hồi ức, rồi hỏi:

- Nhưng nếu để tạo uy tín bằng thứ khổ hạnh chủ nghĩa này tại sao chính anh không thực thi trước? Tại sao anh không chấp nhận một mái nhà tranh có hàng dậu bìm bìm ở ngoại ô mà anh lại ngự toạ trong biệt thự đồ sộ này?

- Cậu quên là tôi đang phải điều hành công việc của đất nước.

- Vậy thì ông cụ là hình nộm của các anh?

- Ông cụ đứng cao hơn chúng tôi một cái đầu. Ông cụ là lãnh tụ tối cao của dân tộc.

- Vì ông cụ là lãnh tụ tối cao nên người đàn bà ngủ cùng giường với ông cụ phải trú ngụ trong căn gác bình dân nơi ngõ hẹp. Còn người đàn bà ngủ với anh được quyền sống thênh thang trong ngôi biệt thự hoành tráng này? Vì ông cụ là lãnh tụ tối cao, là linh hồn đất nước nên người vợ trẻ của ông cụ bị các anh giết như giết một con thỏ còn những người đàn bà ngủ với các anh, tôi nói rõ ở đây là các anh, trong đó bao gồm cả vợ tôi nữa được quyền cưỡi xe Volga đi chợ và mua áo quần, bánh kẹo lẫn các đồ mỹ phẩm ở cửa hàng quốc tế? Dựa trên nguyên tắc đạo đức nào mà các anh tự cho phép mình được làm những điều ấy?

Vũ ngừng lại vì cơn giận khiến ông dường như nghẹn thở. Thuận không đáp, ông ta lấy chân di di một vật nào đó vô hình trên thảm cỏ, không ngửng đầu lên. Một cơn gió xuân lạnh lẽo lướt qua khung trời và những vòm lá dâu da khẽ xạc xào thầm lén. Hồi lâu, Thuận húng hắng cất tiếng ho và buông từng lời rời rạc:

- Tôi xin lỗi. Tôi rất tiếc là cuộc thảo luận của chúng ta đi vào ngõ cụt.

- Đi vào ngõ cụt là bởi các anh từ chối nhìn vào trách nhiệm của mình...Các anh giống lũ trẻ con định ném cái tổ chim nhưng khi viên đá trúng vào ai đó khiến họ vỡ đầu, ngã lăn quay và đổ máu thì các anh bỏ chạy. Sự ví von ấy có chính xác hay không?

- Tôi chưa có câu trả lời cụ thể của anh Sáu. Sáng nay khi tôi gọi điện, anh ấy vắng nhà. Thư kí thường trực báo rằng anh ấy đang xuống bãi thể thao chạy bộ. Tôi cho rằng đây là sự lộng hành của bộ trưởng bộ nội vụ. Có thể là anh Sáu chỉ đưa ra chỉ thị chung chung. Rồi sau đó, Quốc Tuỳ đã vận hành theo lối suy nghĩ côn đồ của anh ta. Hồi bổ nhiệm anh ta , tôi cũng đã gợi ý anh Sáu về lý lịch tội phạm của tay bộ trưởng này. Nhưng anh Sáu gạt đi, nói rằng chúng ta phải tin tưởng ở khả năng cải biến và hoàn thiện con người của cách mạng.

- Có nghĩa rằng sự việc nằm ngoài lãnh địa của anh. Nói một cách đích xác hơn anh không có trách nhiệm gì.

- Tôi rất tiếc là chuyện xảy ra theo hướng tồi tệ như vậy. Tôi sẽ hết sức cố gắng. Tuy nhiên, cậu cũng cố gắng hiểu cho tình cảnh của chúng tôi.

Nói đoạn , Thuận đưa tay chỉ cho ông hàng diên vĩ lá xoăn viền quanh thảm cỏ như giải đăng-ten viền quanh cổ áo đàn bà:

- Cậu hãy nhìn kia.

Vũ cúi xuống nhưng ông chẳng nhìn thấy gì hết ngoài những chùm lá màu tía. Những chiếc lá bóng nhẫy, no nê nước, được chăm sóc thường xuyên khiến vườn cảnh thật mỹ lệ. Nhưng vẻ đẹp thanh nhàn ấy càng khiến ông điên tiết . Vũ cau có gắt:

- Tôi chẳng thấy gì hết ngoài sự mỹ miều của khu vườn này ; mà sự mỹ miều đó giờ đây giống như cái gai chọc vào mắt của tôi.

Thuận chẳng tỏ vẻ phật ý . Nét mặt có đôi phần ngơ ngác và rầu rĩ, ông ta giơ tay kéo áo Vũ để chỉ cho ông thấy một cái màng nhện lớn chăng giữa hai cành diên vĩ, trên đó một con ruồi mắc lưới đang ra sức dãy dụa:

- Cậu có nhìn rõ con ruồi trên tấm lưới nhện kia không? Phải chăng nó không gợi cho cậu một liên tưởng nào? Thủ tướng Đô cũng như tôi rất dễ rơi vào thân phận của con vật khốn khổ đó. Trước đây, tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này. Chính cái chết của cô Xuân đã mở mắt cho tôi. Tình thế đã đổi thay. Cuộc cờ đã xoay sang nước khác. Cậu hãy nhìn quanh chúng tôi xem: lính gác, cần vụ, người nấu bếp, người làm vườn, lái xe, thậm chí đến đầy tớ lau dọn nhà cửa và công nhân đổ rác khu vực này đều là người của họ. Mới có vài năm mà mọi sự đã đổi thay. Hai năm trước chia nhau bữa cơm gạo đỏ với cá mắm trên rừng, tất thảy đều đồng lòng nhất trí. Giờ nhà cao cửa rộng, mọi sự chẳng như xưa .

Vũ bất giác rùng mình. Ông chợt nhận ra sự hèn mọn của con người, kể cả những kẻ được coi là quyền cao chức trọng, những cái đầu sáng suốt nhất của dân tộc, những bậc lương đống của quốc gia. Nhìn thẳng vào mặt vị phó bí thư, ông cười:

- Điều quan trọng nhất và có tính quyết định nhất chính là sự đổi thay này: Ngày ở trên rừng mọi người đều dấn thân vì nghĩa lớn, sẵn sàng chờ đón mọi sự hy sinh kể cả cái chết. Còn giờ đây vì nhà cao cửa rộng, đầy tớ lẫn lính gác đầy sân nên họ chẳng còn chút khí phách nào của bậc trượng phu. Phú quý vinh hoa biến con người thành đám dê ngựa được thuần hoá.

Mặt vị phó bí thư đỏ lựng lên, hai cánh mũi tròn nung núc thịt của ông ta phập phồng. Ông ta quay mặt đi để lảng tránh cái nhìn của Vũ. Vũ tiếp tục nói:

- Dẫu xảy ra sự gì, tôi cũng phải bảo vệ hai đứa con của ông cụ....Còn anh, tuỳ lương tâm mà hành xử...

Nói xong, ông quay lưng bước đi.

- Chào anh.

- Để tôi tiễn cậu.

Thuận nói và hai người lại đi ngược chiều luống hồng để ra cổng. Vừa đi, vị phó bí thư vừa nói lời cuối:

- Tôi sẽ đưa vấn đề này ra bộ chính trị. Tôi sẽ can thiệp tối đa trong khả năng của mình. Tôi cũng sẽ xin lỗi ông cụ và hy vọng ông cụ thông cảm cho tôi.

- Tuỳ anh.

Vũ đáp một cách lãnh đạm, giơ tay cho ông ta bắt cũng với vẻ lạnh nhạt như thế. Rồi ông bước ra lối cổng chính vì giờ đây thanh chắn đã được nhấc lên, hai cánh cổng sắt nặng trịch đã mở rộng hết cỡ. Chiếc Volga bóng loáng rời ga-ra tiến ra, đậu vào vị trí chờ đợi. Còn mười lăm phút nữa là đến giờ hành chính. Ông nhìn thấy Thuận hối hả bước lên tam cấp để vào nhà. Thời gian vừa đủ cho ông ta thay quần áo.

*
* * *

- Cháo của bác đây.

Tiếng một người đàn bà nói sát bên tai khiến ông giật mình.

- Phần cháo sáng của bác đây. Mời bác về phòng ăn cho nóng.

- Cảm ơn cô.

Vũ vồn vã đáp. Cô y tá mang phần ăn sáng cho ông nhoẻn miệng cười rồi lắc cái đuôi tóc kết sam một cách yểu điệu trước khi quay đi. Vũ nhìn vào chiếc bát sắt tráng men: Cháo thịt đại trà ; thứ cháo nấu trong những chiếc nồi đại, cao gần như thùng chứa nhựa đường rồi sau đó được san vào những chiếc xoong nhôm lớn để chia cho hơn một ngàn con người trong viện. Một cơn rung mình bỗng chạy qua toàn thân Vũ. Ông bỗng khiếp sợ cái món ăn tập thể này. Hoặc là những kỉ niệm nặng nề khiến ông chán ăn, hoặc là cái chết của người cùng phòng làm món cháo trở thành thiu vữa. Hoặc là sự cộng hưởng của cả hai thứ.

Vũ đưa mắt tìm mấy người đàn bà chăm sóc người bệnh trong phòng của ông. Trong số đó, ông đặc biệt chú ý đến một bà già xương xẩu, cao lòng khòng nhưng vững trãi như một dàn giáo. Trước những con mắt hoặc là thán phục hoặc khiếp sợ của đám hộ lý cũng như y tá, bà ta thường bế bổng ông chồng lên đem vào phòng tắm như người ta bế bổng một đứa trẻ lên ba. Vậy mà nghe đâu ông chồng này đã bỏ bà ta mười năm dưới làng, để sống vụng với một nữ đồng chí trên chiến khu rồi sau ngày giải phóng thủ đô lại gối chăn với một bà goá đất Hà thành mỡ màng như miếng thịt mông luộc. Giờ, đến lúc gần đất xa trời, hẳn không thể nhờ cậy được ai nên ông ta lại yêu cầu con cái triệu hồi "bà răng đen váy ộp" lên nuôi. Bà già xứ quê không thể quen với xuất ăn bệnh viện. Chắc bà đói dữ nên Vũ thường xuyên thấy bà đi tầm những thứ bánh trái, khoai luộc sắn luộc về ăn thêm. Lúc này bà đang đứng xếp hàng, tay chìa sẵn chiếc đĩa nhôm ra chờ đợi xuất bánh cuốn của đức lang quân. Vũ liền bê bát cháo đến:

- Chào chị, hôm nay tôi nhạt miệng không muốn ăn. Chị có thể gánh vác giùm không?

- Ồ, quý hoá quá. Em xin bác. Em chờ lấy bánh cuốn rồi đem về phòng một thể.

Bà đáp vui vẻ. Vũ chào bà rồi đi về phía đầu hành lang. Ông tính dạo quanh khu vườn vài vòng, khi nào mệt sẽ tới căng-tin uống cà-phê và ăn bánh rán. Ít ra, nó cũng không kinh sợ như món cháo loãng này. Cúi đầu, Vũ xăm xăm bước xuống cầu thang. Ông không nhìn thấy một người đàn ông đang đuổi theo mình:

- Chú Vũ....Chú Vũ...

- Chú Vũ....Đợi tôi đã....

Người khách gọi ba bốn lời ; Vũ mới sực tỉnh quay lại:

- Anh Bắc !

Ông anh đội mũ lá, quần áo nâu đồng bộ như một nông dân thực thụ, hai tay xách lễ mễ một đống túi lớn túi nhỏ.

- Em xin lỗi, em đang mải đi...

Hai anh em dừng lại giữa cây cầu thang, nhìn nhau. Người anh nói:

- Chẳng ai cho tôi biết tin hết. Mãi hôm qua con gái cô Thảo mới rẽ qua nhà.

Vũ cười:

- Đúng vậy. Vân không thể báo tin cho anh vì chính cô ấy gây ra cơn chấn thương tâm thể khiến em phải vào đây...Còn cơ quan, em yêu cầu họ không được cho anh biết vì không muốn anh lo buồn. Chú bậy quá! Tôi với chú là khúc ruột trên khúc ruột dưới, sao lại dấu tôi?

- Vì anh đã có quá nhiều việc phải lo rồi.

Vũ đáp , đoạn cúi nhìn mớ túi xách lủng củng trong tay ông anh:

- Anh mang gì mà lắm thế?

- Cam vườn nhà, chuối cũng vườn nhà, mật ong cũng chắt ở đõ ong nhà....Chỉ có mớ tôm biển là tôi mua và tự tay nướng thôi.

- Anh vẫn coi em như trẻ con hay sao?

- Ô hay. Trẻ con hay người lớn thì chú cũng vẫn là em tôi.

Hai người nhìn nhau. Hai người đàn ông tóc muối tiêu, người em nhiều muối hơn tiêu, còn ông anh tiêu nhiều hơn muối. Một chút im lặng rưng rưng rồi ông anh ngượng nghịu cười:

- Tệ thật. Chú lo nhiều việc nên tóc trắng nhiều hơn tôi. Kiếp dân quê có cái khổ mà cũng có cái sướng. Ngày vài bữa cơm rau. Lặn mặt trời là cất tiếng ngáy, chẳng phải nghĩ ngợi gì.

- Anh mà không nghĩ ngợi được sao?...

Vũ bật cười nhại lại rồi bảo:

- Thôi, đưa em cất mấy cái túi rồi anh em mình xuống quán trà uống nước...Trong phòng bệnh, mùi mẽ chẳng thơm tho gì. Anh cứ đứng đây chờ em.

Nói đoạn, ông xách mớ túi trở lại phòng. Sau khi xếp gọn gàng các thứ quà vào chiếc tủ nhỏ, Vũ quay lại cầu thang và hai anh em đi tới căng-tin bệnh viện. Ở đó, họ ngồi bên ấm trà im lặng. Cả hai nhẩm tính xem lần cuối cùng gặp nhau đã bao lâu. Rồi, gần như cùng một lúc, họ bật tiếng kêu:

- Thấm thoắt đã hai năm rưỡi.

Ông anh cải chính:

- Hai năm bảy tháng rưỡi rồi.

Cả hai người lại im lặng, như người nọ chờ người kia lên tiếng trước. Hồi lâu, Vũ bật tiếng kêu:

- Em nhớ mẹ quá, anh Bắc ơi.

Ông anh gật đầu:

- Tôi cũng vậy.

Ngừng lại một giây, ông nói thêm:

- Thật lạ lùng, càng về già càng giống trẻ con. Nhớ mẹ cứ như hồi lên năm lên sáu.

- Sáng nay, lúc bệnh viện chia cháo, em nhớ lại món cháo cá mà mẹ vẫn nấu thời xưa. Chỉ nghĩ thôi đã nhỏ dãi vì thèm.

- Ờ, mẹ nấu ăn ngon nức tiếng cả vùng. Chả thế mà cứ ở đâu có tiệc lớn người ta lại đến chèo kéo. Chú có nhớ đêm sang cát cho bà nội, mẹ nấu cháo cá quả đãi mấy chục người trong họ?...

- Có, em như vẫn ngửi thấy mùi thơm của gừng tươi giã, thìa là hành tăm, hạt tiêu nghiền và ớt tươi dầm nước mắm cốt. Em vẫn nhớ cái ang rộng đặt đầu hồi mẹ thường nhốt cá quả để ăn dần. Lũ cá quẫy tanh tách suốt đêm.

Vũ ngừng lời, dường như nếu tiếp tục nói thì ông sẽ bật khóc. Cái ang cá ấy hai anh em ông thường ra chọc phá, nhiều phen làm lũ cá nhảy vọt ra sân. Có lần, trong cuộc tập trận giả của lũ trẻ toàn huyện, ông được đóng vai tướng Đinh bộ Lĩnh. Vì muốn phóng tay khao lũ trẻ cùng phố để xứng đáng là bậc anh hào, ông về nhà đòi mẹ nấu cháo khao quân. Đương nhiên, bà từ chối vì xưa nay chưa có ai chiều con để làm một việc rồ dại như vậy. Hôm sau, thừa lúc mẹ ông đi chợ, Vũ dốc cả một túi ớt bột hai lạng vào ang khiến lũ cá chết sặc. Trở về nhà, mẹ ông hiểu ngay sự tình. Bà đành đổi giận làm vui, làm thịt gần hai chục con cá lớn, nấu một nồi ba mươi cháo để khao đại quân của Đinh bộ Lĩnh phố huyện. Hơn bốn mươi thực khách tí hon được mời đến thưởng thức cháo cá và các loại bánh kẹo tráng miệng. Ông anh lúc đó phải thay mặt "tướng quân Vũ" đứng lên tuyên bố lý do "Vũ tướng quân thết lính mừng chiến thắng" Bởi sau khi gây tội ác, Vũ đã chuồn ngay sang nhà bà ngoại. Khi bữa tiệc kết thúc, đám trẻ trong huyện no nê xoa bụng ra về, ông Bắc bị phạt nằm úp mặt xuống chiếc chiếu trải giữa nhà, nhận một loạt mười hai roi tre vút lên mông vì tội a tòng phá hoại. Trong khi đó, Vũ yên trí nhởn nhơ dưới cánh tay che chở của bà ngoại, tuy thiệt mất bữa cháo cá nhưng bù lại được bà cho đi ăn phở và các bánh trái khác. Như thế, ba ngày đêm trôi qua. Tới ngày thứ tư, mẹ ông đến và réo từ ngoài ngõ:

- Vũ, mẹ tha tội cho con. Không phải trốn nữa. Đi về nhà.

Kỉ niệm đó khiến tim ông tràn đầy xao xuyến. Vũ thầm nghĩ:

"Anh ấy luôn luôn phải chịu đòn thay ta. Anh ấy luôn phải giơ vai ra đỡ những gánh nặng... Không chỉ tuổi thơ mà cho đến tận lúc này"

Bất giác, ông cúi xuống nhìn bàn tay người anh đang đặt trên bàn: đó là bàn tay nông dân thực thụ với những ngón tay thô nháp, đen rám vì nắng cháy, các vành móng tay thâm xì nhựa cây.Bàn tay ấy đặt cạnh bàn tay ông như một tương phản vô tình. Bởi từ lâu, ông chỉ làm việc trong văn phòng nên những ngón tay trắng nuột như tay đàn bà đẻ....Đã mười hai năm nay, Bắc phải để lại gia đình trên phố huyện, giao xưởng mộc nổi tiếng của ông cho đứa con rể điều hành để về sống nơi quê ngoại của bà mẹ, với danh nghĩa chăm sóc bà mợ già không chồng không con nhưng thực chất là để nuôi Nghĩa, đứa con gái cô Xuân. Ngày cô Xuân chết, Vũ cho người nhắn ông lên, bởi chẳng tìm ra ai gánh vác nổi việc này. Vợ ông, cõng thêm một đứa con trai đã là quá sức. Vả chăng, ai cũng biết rằng Vân ghét những người cùng giới tính. Bà có thể đóng vai hữu nghị trong chốc lát với một vài người đàn bà phổi bò hoặc ngu dốt, lợi dụng họ hay biến họ thành trò chơi, nhưng trong thâm tâm bà không muốn kết giao với bất cứ ai. Bà chỉ có thể làm bạn với đàn ông. Bà chỉ có thể nuôi một tình cảm thực sự với người khác giới. Bà yêu ông, nhưng ngoài ông, bà muốn có thường xuyên một đội ngũ đàn ông vây quanh bà, dưới tất thảy các loại nhãn hiệu như đồng chí, bạn đồng nghiệp, bạn đồng hương, bạn đồng niên, bạn đồng môn, chị em nuôi, cô cháu kết nghĩa...Thực chất, đám đàn ông này dù già hay trẻ đều xoay quanh người đẹp Hà thành như các hành tinh lớn nhỏ xoay quanh một vầng dương, sẵn sàng phục vụ bà khi cần thiết. Họ chiêm ngưỡng nhan sắc của bà, thèm khát bà một cách thầm lén, dù trong giấc mơ chính ngọ hay giấc mộng lúc nửa đêm. Như thế, người đẹp Tố Vân luôn sống với niềm kiêu hãnh của một nữ hoàng không ngai, tuy chẳng chính thức xưng danh nhưng không thiếu ánh hào quang bao quanh tên tuổi...Và như thế, trời không thể phú cho bà đủ lòng từ bi để chăm sóc một đứa con gái mồ côi....Hồi ấy, tuy chưa đủ can đảm để hiểu vợ một cách rạch ròi nhưng ông cũng biết chắc chắn không thể đưa Nghĩa về sống dưới mái nhà mình. Chẳng còn cách nào hơn là trông cậy vào tình ruột thịt. Ông sai lái xe về phố huyện mang lá thư vẻn vẹn một dòng:

"Anh thân mến, em cần gặp anh ngay, càng sớm càng tốt."

Lái xe đi buổi sớm, tối sẩm quay về Hà-nội mang theo người anh cả . Buổi tối, ăn cơm xong, họ ra vườn hút thuốc. Ông Bắc hỏi:

- Liệu họ có để cho đứa bé yên thân sinh sống nơi thôn dã?...Chú đừng quên rằng càng xa thủ đô, càng tối tăm...Côn đồ càng dễ ra tay.

Vũ đáp:

- Em lại nghĩ rằng ở xa, đứa bé sẽ an toàn hơn. Nó là phận gái, chẳng phải kẻ duy trì nòi giống nên không nằm trong ống kính của họ. Ở xa, họ bớt chú mục. Bớt chú mục ắt bớt động dã tâm.

Ông anh bảo:

- Vậy là được. Nếu chú đã thu xếp đầy đủ quần áo cho cháu bé, tôi sẽ đưa nó đi ngay đêm nay.

- Anh không cần đi ngay đêm nay. Lái xe phải ngủ. Nhưng sáng mai, em sẽ yêu cầu cậu ta đưa anh và con bé lên đường thật sớm. Tuy nhiên...

Lúc đó, chính Vũ lại tần ngần.

Ông thấy áy náy khi buộc người anh phải bỏ gia đình lẫn công việc để về sống nơi thôn dã, một cuộc sống thiếu ánh điện, thiếu mọi phương tiện sinh hoạt bình thường. Đang từ ông chủ một xưởng mộc lớn nhất ba huyện, ông sẽ buộc phải cấy lúa, làm vườn, kẽo kẹt đẩy xe thồ đi bán mít, bán ổi, bán dứa, bán bưởi, bán xoan...Đang từ bậc gia chủ ngày ngày có cơm bưng nước rót, ông sẽ phải sống trong ba gian nhà mênh mông tù mù ngọn đèn dầu hoả, phải tự nấu lấy mấy bữa cơm trong căn bếp mù mịt khói trấu, khói rạ. Ông sẽ phải chịu đựng nỗi nhớ vợ nhớ con. Ông sẽ phải chịu đựng cả nỗi nhớ nghề, bởi đó chính là một người thợ có đôi tay vàng, tất thảy những gì ông làm được người trong vùng trân trọng như những tác phẩm mỹ thuật. Đồ gỗ khảm trai của ông không chỉ để dùng mà còn được coi như gia sản di tặng cho con cháu. Gia đình nào cũng cố mua cho được một thứ gì đó, một chiếc tủ chè, tủ đứng, một chiếc búp-phê, hay một chiếc sập chân quỳ. Và hãnh diện khoe với láng giềng: "Đồ xịn nhà ông Bắc đấy!"

Nghĩ đến nông nỗi ấy, Vũ đâm ra ngượng ngùng:

- Tuy nhiên, em nghĩ rằng...em thật là có lỗi với anh.

Ông Bắc lắc đầu:

- Chú không cần áy náy. Tôi biết phận mình đã lâu. Ngày chú còn ở trên chiến khu Việt bắc, mẹ ốm nặng nửa năm liền. Trước khi chết, mẹ dặn tôi: "Em con về già gặp nhiều điều khổ tâm lắm. Con đừng bỏ nó một mình. Tuy thiên hạ nói: Anh em kiến giả nhất phận. Nhưng nhà mình phải tuân theo câu này: Anh em như thể chân tay"

Đoạn ông dập điếu thuốc, đi ngủ.

Hôm sau, ông dắt đứa bé lên xe từ lúc còn mờ sương.

Mười hai năm trôi qua như giấc mộng.

Người anh đã trở thành nông phu đích thực, đúng như Vũ dự đoán, cho dù ông không cấy lúa. Tiêu chuẩn gạo của ông trên phố, vợ ông mua và chuyển về từng tháng, tiện thể bà ghé thăm chồng, thu xếp những thứ vặt vãnh mà người đàn ông không quen đảm nhiệm. Dưới thôn, một mình ông chăm sóc nương vườn. Vườn trước, vườn sau, trại trồng dứa, sân nuôi gà vịt, mười hai đõ ong nhà...Xoay sở từ sáng đến tối, chẳng ngày nào thiếu việc. Như thế, ông nuôi Nghĩa từ năm hai tuổi cho đến lúc này, đã trở thành cô thiếu nữ biết quán xuyến việc nhà, biết phụ bố đẩy xe thồ đi bán trái cây hoặc gia cầm vào ngày phiên chợ. Làng xóm gọi họ là bố con ông thợ mộc vì Bắc có đem theo mớ đồ nghề và những lúc rảnh rỗi, ông ngồi luyện tay đục tay chạm cho khỏi quên. Bà mợ của họ đã chết từ bẩy năm nay, thọ tám mươi hai tuổi. Nhưng Bắc vẫn ở lại miền quê cùng đứa bé.

Sau một hồi im lặng, Vũ cất tiếng hỏi:

- Cháu nó ra sao hả anh?

- Nó khoẻ và ngoan, càng lớn càng hiền lành. Tôi e là nó quá hiền lành nhút nhát.

- Giỏ nhà ai quai nhà ấy. Mẹ nó xưa cũng hiền lành như vậy.

- Có điều năm nay nó đã tới tuổi dậy thì.

- Chết thật ! Sao em lại quên khuấy đi điều ấy nhỉ?

Vũ kêu lên rồi nhẩm tính. Quả thật, đứa bé đã đến tuổi dậy thì. Thời xưa, còn tục tảo hôn, mười ba tuổi người ta đã lấy chồng cưới vợ. Ngày nay, ấy là tuổi bản lề để con người bước từ thời niên thiếu sang tuổi thanh xuân.

- Trời đất ơi, nước chảy bèo trôi, thời gian đi như tên bắn...

- Thế đấy, chú và tôi, chúng ta cũng đã già đi nhiều.

- Mười hai năm qua, anh đã phải xa chị và các cháu để gánh vác cho em.

- Chú đừng nói thế. Phận sự của chú cũng chính là phận sự của tôi. Tôi không quản ngại gì. Chỉ có điều khó nghĩ là giờ đây, con bé đã lớn. Nếu để nó tiếp tục sống dưới làng, nó sẽ trở thành người làm vườn thực thụ, rồi chẳng mấy lúc, nó sẽ phải lòng một cậu trai làng và biến thành nông dân. Như thế, xem ra quá thiệt thòi cho thân phận của con bé chăng? Tuy sống dưới vòng tay bảo trợ của chúng ta, nhưng danh chính ngôn thuận, đó vẫn là một công chúa.

- Vâng, anh nói đúng. Việc này hoàn toàn do lỗi ở em. Em mê mụ đầu óc nên không sớm nghĩ ra điều này.

Vũ nói, đoạn nắm lấy bàn tay ông anh:

- Anh xem này, tay anh đen đủi xù xì còn tay em trắng lốp. Vậy là bao nhiêu phần vất vả trong gia đình anh gánh hết cho em.

- Chú nói rỡn, ai làm việc văn phòng mà chẳng trắng mặt, trắng tay?...

- Em không thể mở miệng cảm ơn anh vì lời lẽ đó tầm thường nhạt nhẽo. Lẽ ra, theo cung cách thời xưa, em phải quỳ gối trước mặt anh mà vái tạ.

- Ồ chú Vũ....

Ông anh lắc đầu:

- Đừng nói thế. Chớ bao giờ nên nói thế. Tôi với chú là khúc ruột trên khúc ruột dưới. Gánh nặng trên vai chú cũng là gánh nặng trên vai tôi.

Nước mắt trào qua mi, lăn xuống gò má Vũ. Ông quay đầu nhìn sang khu vườn sau của bệnh viện để tránh những con mắt tò mò. Ông Bắc cũng cúi xuống, uống liên tục hết chén trà này đến chén trà kia. Cả hai đều nghe rõ tiếng ong rù rì bay trong đám dâu da. Hồi thơ ấu, vườn nhà họ cũng trồng dâu da, ong cũng rù rì bay như hôm nay. Những tàn lá dâu da cũng xanh màu xanh mong manh và đám hoa chua me dại mọc dưới các gốc cây cũng tím màu tím ấy...Cảnh vật đâu có thay đổi? Chỉ có một đổi thay là từ hai chú bé mặc quần thủng đít giờ họ đã trở thành hai gã đàn ông đứng chông chênh giữa tuổi trung niên với tuổi già.

Hồi lâu, người anh ngẩng đầu lên:

- Việc chú với cô Vân sẽ giải quyết theo hướng nào?

- Em chưa làm thủ tục ly hôn nhưng sẽ dọn vào cơ quan. Khi nào thằng bé Trung nghỉ hè em sẽ đón nó về đấy. Bữa trước cậu thư kí đến thăm em đã yêu cầu chuẩn bị sẵn mọi thứ cần thiết để khi ra viện em sẽ về thẳng nơi ở mới. Còn Vân sẽ ở lại biệt thự với Vinh và chắc chắn, cậu em ruột của cô ấy sẽ mò tới.

- Khó mà ổn thoả. Tôi nghĩ rằng cô ấy chẳng chịu đâu.

- Bây giờ, em chưa tìm được giải pháp nào hơn.

- Tình thế này, chú khó gánh thêm cháu Nghĩa. Thôi , để tôi đưa nó lên phố huyện với gia đình. Dẫu sao, gái phố huyện còn đỡ thiệt thòi hơn là nông dân xóm trại.

- Em xin đội ơn anh, nhưng em sẽ xoay sở tìm nơi nhờ vả. Quả tình là con bé quá thiệt thòi. Ông Bắc đứng lên:

- Tôi phải quay về nếu không lỡ chuyến tàu chiều. Bỏ con bé một mình qua đêm e không ổn. Có lẽ tôi phải thu xếp bán nhà cửa vườn tược hoặc thuê người trông coi để đưa nó lên phố huyện, sớm ngày nào hay ngày ấy.

Ngần ngừ một lát, ông buông tiếng thở dài rồi nói thêm:

- Chú biết không, ối thằng con trai sớm chiều lượn quanh ngõ. Chưa đầy mười bốn mà con bé đã đẹp nõn ra.Thế nên, tôi chẳng dám để nó ở một mình.

Nói rồi, ông xoa lưng đứa em trai:

- Chú lo giữ sức khoẻ. Tôi sờ thấy cả dãy xương sườn rồi đây.

Chụp chiếc mũ lá lên đầu, ông đi.

Vũ ngồi lại, nhìn ông Bắc mất hút trong đám người tấp nập ra vào trước cửa bệnh viện. Ông không thích cảnh bịn rịn phơi bày trước mặt đám đông nên không bao giờ đưa tiễn người anh. Trong gia đình ông, thường diễn ra cảnh trái ngược này: Khi ông về phố huyện thăm ông Bắc, lúc ra đi hai anh em bìu díu hàng giờ đồng hồ chẳng dứt ra nổi. Bao giờ ông anh cũng mượn cớ tháp tùng ông em ra xe rồi kéo đi lòng vòng quanh các phố để hỏi thăm láng giềng, ghé chỗ này một lát uống chén trà, tạt qua chỗ kia một lát thưởng thức bể cá cảnh hay hòn non bộ. Rồi, đến lúc chót, ông Bắc lại đột ngột kêu lên:

- Thôi chết, tôi quên đưa cho chú gói chè....Chè ướp sen của bà Liễu trong làng Chẩm Liên đấy. Mùa sen, bao nhiêu hồ sen lớn trong vùng đều lũ lượt chở hoa đến bán. Tay sao chè của bà ấy thì chẳng ai dám bì. Dân Hà nội vẫn phải đổ về đây mua.

- Thôi chết, tôi đã nhốt mấy con cá vào túi nước mà lại để quên trong bếp. Chờ tôi đã. Cá này thuần cá sông loại thượng hạng. Chịu khó xách về nhốt vào ang, rồi bảo cô Vân nấu cháo hay hấp rượu gừng cho mà ăn.

- Thôi chết, mớ tôm biển tôi đã nướng kĩ lại bỏ quên trong trạn. Chờ tôi lấy đã. Mang về Hà nội mà uống bia.

Lần nào, ông anh cũng tìm ra đủ thứ quên lãng như thế, và cuộc tiễn đưa cứ dùng dắng kéo dài. Ngược lại, ông Bắc lên Hà nội chơi, lúc ra về thường một mình chạy cun cút ra xe, ông em ngồi trong nhìn theo một cách âm thầm. Tính khí họ trái ngược nhau, cung cách cư xử cũng vậy.

Vũ nhắp một ngụm trà:

"Anh ta thật xứng là người: Quyền huynh thế phụ !..."

Ông thầm nghĩ, nhưng tức khắc lại tự riễu cợt mình:

"Anh ấy thế phụ nhưng chẳng có quyền huynh !..."

Và đúng là như thế. Mọi quyết định lớn trong gia đình chính ông đảm trách . Nhưng thực hành những nghĩa vụ nặng nề nhất lại chính là ông anh. Hồi nhỏ, mẹ anh thường nói với cha anh, không ra than phiền, cũng chẳng phải vui sướng, chỉ đơn thuần là một nhận xét với xiết bao tò mò, kinh ngạc: "Hai đứa con trai nhà này giống như ăn phải bùa mê hay bả tình của nhau vậy. Nhưng thằng bé lại to đầu, chuyên sai khiến thằng anh."

Vũ cười thầm, đưa chén trà lên uống. Đúng lúc ấy, ông thấy hai gã Trần Phú và Lê Phương đang khoác tay nhau đi qua sân. Đột nhiên, một ý tưởng vụt qua óc ông:

"Hai gã này ! Chính là hai gã này. Tại sao không? Chắc chắn ta sẽ nhờ cậy được một trong hai kẻ đó. Linh giác mách bảo ta như vậy."

Ông vội đặt tách trà xuống chạy ra cửa, gọi Trần Phú. Hai người cùng tức khắc quay lại:

- Ồ, đại nhân....

Lê Phương nhoẻn miệng cười:

- Đại nhân có hẹn với ai hay ra đây để tránh mặt người?

Vũ hỏi:

- Tránh mặt người? Anh muốn nói điều gì vậy?

- Tránh mặt đám đồng chí của anh trong phòng bệnh. Cuộc đối diện thường xuyên với đám đồng chí đó, hẳn không làm cho anh khoẻ khoắn cả thể chất lẫn tinh thần?

- Ồ, đúng vậy.

Vũ thú nhận. Ông quay lại bảo Trần Phú:

- Anh còn nhớ người bệnh nằm đối đầu với tôi không? Cái tay sĩ quan từng quen biết anh khi anh phụ trách tiểu đoàn 5O7.

Trần Phú ngơ ngác nhìn ông:

- Tôi chưa kịp định thần để nhớ lại cái thời xa xôi ấy.

- Ồ, cái tay sĩ quan quân đội nhưng không dám vào viện 108 điều trị mà lại trốn sang bên này. Cái người đã gửi lời thăm và nói rằng anh là người biết chọn đúng con đường của mình trong cuộc đời.

- A ! Giờ thì tôi nhớ ra rồi. Cái gã khò khè môi thâm như mận Lạng sơn chứ gì?

- Chính xác. Anh ta đã chết sáng nay.

- Thế a ...

Trần Phú buông tiếng kêu, chẳng ra ngạc nhiên cũng chẳng phải buồn phiền... Rồi anh ta quay sang bảo Lê Phương:

- Gã trung tá này có một cuộc đời sóng gió, đầy ham hố cũng như tì vết, và đương nhiên là vô số ân oán giang hồ....Lúc nào rảnh tao sẽ kể cho mày nghe. Được cuốn tiểu thuyết hấp dẫn đấy...

Quay sang Vũ, anh ta hỏi:

- Khi anh ta chết, nhân viên bệnh viện đưa xuống nhà xác. Còn người thân chẳng một ai vào, điều đó có đúng không?

- Sao anh biết?

- Vì tôi vốn có thói xấu tò mò....Tôi đã quên anh ta từ lâu, nhưng khi anh nhắc lại, tôi muốn hiểu xem những gì đã diễn ra giữa đám người cùng thời với mình. Và tôi mở cuộc điều tra tức khắc.

- Đúng, anh ta chết khoảng ba bốn giờ sáng nay. Từ khi anh ta nhập viện , chẳng thấy một ai bước vào. Cái tủ đầu giường của anh ta chưa từng có một quả cam hay một gói bánh người khác đem tới. Bác sĩ bảo anh ta nhập viện đã gần ba tháng.

- Đó là chung cục của một cuộc đời. Nhưng thôi, chúng ta chuyển đề tài, vì thứ người như vậy chẳng đáng quan tâm vào một buổi sáng đẹp như sớm nay.

Vũ cất tiếng cười:

- Anh có lý....Vì chính tôi, tôi cũng đang có chuyện đau đầu và đang muốn nhờ cậy hai anh.

- A...ha ....ha....

Cả hai gã ngoác miệng cười. Tiếng cười của họ ròn rã lan đầy không trung khiến cho đám người đang ngồi xung quanh tò mò đưa mắt liếc sang. Lê Phương bảo:

- Một bậc đại nhân quyền cao chức trọng mà lại nói những lời khiêm nhường như vậy trước mặt hai kẻ lêu lổng, chơi bời?....Đại nhân định đùa bọn em hay định nói thật đấy?...

- Suốt đời tôi, tôi chưa đùa rỡn ai...

Vũ đáp. Và vẻ nghiêm trang của ông khiến hai gã ngậm miệng lại. Họ bắt đầu chăm chú nghe ông nói.

- Các anh biết rằng tôi lãnh nhận việc nuôi hai đứa con của một bậc ...huynh trưởng....

- Chúng em đều biết chuyện ấy. Xin đại ca nói tiếp...

- Đứa con trai sống cùng với gia đình tôi. Nhưng đứa con gái phải về quê sống với anh trai của tôi, một làng hẻo lánh không phải ở tỉnh Bắc mà tận chót tỉnh Thái Nguyên. Nói thật tình, một đời sống hoàn toàn thôn dã....Nay cháu đã mười ba tuổi, tôi tính đem cháu về Hà-nội, nhưng chưa biết nhờ cậy ai.

Lê Phương gỡ cặp kính dày như trôn chén của anh ta xuống, đưa mắt liếc quanh rồi hạ giọng:

- Đấy chính là đứa con gái đầu lòng của ....bậc trưởng thượng?

Dẫu là nhà văn, anh ta cũng phải lúng túng một hồi trước khi tìm cho được danh từ chính xác, vừa có thể gọi tên người cha bí ẩn kia một cách rõ ràng, vừa không để cho những lỗ tai bên ngoài đoán định được:

- Đấy chính là những trái cây trong mùa hoa cuối cùng của cuộc đời bậc cao nhân !

Sau rốt, anh ta tìm lại cách diễn đạt hết sức văn chương.

Vũ gật đầu:

- Chính xác như vậy. Hai đứa trẻ đó cách nhau có hai mươi tháng thôi.

- Tôi hiểu. Thời gian đó là cuộc truy lĩnh những ham muốn bị tước đoạt, những dục vọng bị cấm đoán hay ghìm nén suốt cuộc kháng chiến trường kì. Sau ngày giải phóng thủ đô là thời điểm giải phóng những thân xác bị giam cầm. Nhưng cuộc giải phóng nào cũng kèm theo những điều kiện khắc nghiệt. Cuộc giải phóng của dân tộc chúng ta mở ra ngay sau lưng nó những nhà ngục khổng lồ.

- Những nhà ngục khổng lồ? Ý anh muốn nói gì?

- Xin lỗi đại ca, những lời lẽ của tôi có thể làm anh phẫn nộ hay phật ý. Nhưng không thể tìm được danh từ nào chính xác hơn. Sau ngày giải phóng thủ đô, toàn thể những người Việt nam buộc phải sống bằng các xuất gạo hẩm của nhà nước và những ô tem phiếu. Điều kiện kèm theo các thứ tem phiếu đó là sổ hộ khẩu, biện pháp kiểm soát con người còn chặt chẽ hơn chính sách "Tam gia" của Thương Ưởng thời xưa. Một xã hội mà con người bị khống chế từ miếng ăn đến sự đi đứng, bị kiểm soát như những con cừu đánh số trong chuồng cừu, xã hội đó chẳng gọi là nhà ngục khổng lồ thì còn biết gọi bằng danh từ nào chính xác hơn?

- Vâng. Quả thực là ...

Vũ đáp, nhưng lòng ông quặn đau. Rồi sau một khoảnh khắc, ông cố gắng tự trấn tĩnh và nói:

- Vâng. Quả thực là chúng tôi không ngờ được cơ sự diễn ra theo nông nỗi ấy. Khi dấn thân vào con đường cách mạng, ai nấy đều nghĩ đến tương lai dân tộc, ai nấy đều mơ đến một ngày mai tươi sáng cho đất nước. Phan chu Trinh cũng mơ ước một ngày mai tươi sáng cho đất nước. Nguyễn thái Học cũng mơ ước một tương lai rực rỡ cho dân tộc và niềm tin ấy theo ông cho đến tận đoạn đầu đài. Năm 1946, bao nhiêu chàng trai cảm tử chống lại quân Pháp bằng bom ba càng, bằng cây súng cổ lỗ mút-cơ-tông và cả bằng dao găm, kiếm ngắn nữa. Nhưng nếu những người trai này không chết bởi thực dân Pháp, ắt sau ngày chiến thắng họ cũng sẽ bị các anh kết án và tống giam, hoặc bởi liên quan với quốc dân đảng, hoặc bởi có gốc tích địa chủ hay tư sản. Tất thảy những ý tưởng tốt đẹp không thể biện minh cho một chung cuộc đểu cáng, ô nhục như vậy. Xin lỗi đại ca, nếu sự thẳng thắn của tôi khiến anh phải đau lòng. Nhưng ít ra, một lần trong đời, chúng ta cũng nên đối đầu với sự thật.

Lê Phương ngừng lời, anh ta quay lại quầy căng-tin cao giọng gọi:

- Cho ba vại bia lớn nhé. Một đĩa lạc luộc và một đĩa bánh rán nhân thịt kèm theo.

Trần Phú bật cười hô hố:

- Chiều nay bão cấp bảy sẽ đổ bộ vào đất liền. Bởi cái thằng kiệt sỉ lõ đít này chưa bao giờ đãi ai dù một tách cà-phê.

Lê Phương quay sang bảo bạn:

- Không kiệt sỉ không phải là tao, mà không mất tiền cho gái sẽ không phải là mày. Nhưng thực ra mày cũng chỉ để gái moi túi áo bên trái còn túi bên phải mày vẫn giấu kĩ cho vợ con đấy chứ?

- Chính xác như vậy.Tao không bác bỏ sự thật. Tao là thằng dại gái có chừng mực. Bộ máy kiểm toán trong đầu tao tuy nhỏ nhưng hoạt động liên tục và có hiệu lực.

Hai người lại cất tiếng cười. Vẻ sung sướng của họ khiến ông sững sờ. Dường như họ sống trong một cõi đời khác. Vừa lúc đó, cô bán căng-tin bưng ra một mâm đầy nào bia nào đồ nhắm bình dân. Nhà văn đưa mắt lúng liếng nhìn bạn rồi nói:

- Hôm nay cái thằng đệ nhất kiệt sỉ là tôi khao bia mọi người để chúc mừng thắng lợi của anh chàng chim gái Trần Phú. Báo tin cho đại ca mừng là bạn tôi vừa tìm được một cô nàng ngon mắt, ngon cả miệng. Theo phương thuốc cổ truyền của dân tộc, ắt nàng sẽ chữa được căn bệnh u tiền liệt tuyến cho cậu ta trong thời gian ngắn nhất.

- Thôi, không phải khua chiêng gõ trống. Để rồi xem. Làm trước nói sau, các cụ đã dạy như thế.

Trần Phú ngắt lời bạn. Đoạn, anh ta quay sang hỏi Vũ:

- Giờ, xin đại ca uống bia rồi trở lại câu chuyện chính. Nếu tôi không nhầm anh muốn tìm nơi gửi cháu gái, năm nay tuổi mười ba?

- Vâng.

- Nó sống ở nông thôn từ thuở nhỏ?

- Vâng, nói một cách chính xác, từ năm cháu lên hai. Năm nay nó đã xấp xỉ mười bốn tuổi. Nếu không đưa cháu kịp thời trở lại Hà nội, chắc chắn nó sẽ trở thành một nông phu. Và sống trọn kiếp sống của người làm vườn, cấy lúa...

Trần Phú gật đầu:

- Tôi hiểu. Đời người đàn bà ngắn lắm. Trước hết là đàn bà xứ quê.

Vũ nói tiếp:

- Tôi biết là việc này vô cùng khó khăn. Ngay cả những người quen thân hàng mấy chục năm nay tôi cũng không dám nghĩ đến. Thành thực mà nói, chính tôi cũng không hiểu vì sao tôi lại nảy ra ý định nhờ cậy hai anh? Hoàn toàn là sự chỉ định của linh giác...

Trần Phú ngoác mồm cười:

- Linh giác vẫn luôn luôn là người chỉ đường khôn ngoan nhất. Anh nhờ cậy chúng tôi là đúng. Vì chúng tôi đang ngồi bệt dưới cỏ....Chỉ có những kẻ đít lấm bùn mới dám dây vào những chuyện như thế này.

Vũ ngơ ngác, ông chưa kịp hiểu anh ta định nói gì. Có lẽ nhìn thấy vẻ ngơ ngác của ông nên nhà văn đặt vại bia xuống để giải thích thay cho bạn:

- Có hai thứ người đít lấm bùn. Thứ người đít lấm bùn theo nghĩa đen tức là nông dân hoặc đám thị dân cùng khổ, những người ấy khó có thể giúp anh cho dù lòng họ mong muốn. Bởi họ thiếu khả năng, trí tuệ cũng như tài chính. Thiếu trí tuệ dẫn đến sự sợ hãi kẻ cầm quyền. Thiếu tiền bạc, họ chẳng thể bao dung ai khi ngay những người thân của họ còn đang đói khổ. Thứ người đít lấm bùn theo nghĩa bóng là những kẻ tự nguyện sống ngoài vòng quay quyền lực. Họ chọn cách sống như thế vì họ đủ khả năng nhìn ra sự thấp kém của kẻ cầm quyền. Thêm nữa, họ cũng tự trang bị một phương tiện tài chính tối thiểu đủ để duy trì cuộc sinh tồn và có đôi chút dư ra để có thể bao bọc kẻ khác khi cần thiết. Như thế, họ tương đối tự do.

- Vâng. Giờ thì tôi hiểu. Tuy nhiên...

- Tuy nhiên, anh vẫn ngại ngùng vì chắc chắn đây là chuyện tầy trời đối với những ai đang sống trong thế giới của anh?....Chúng tôi hiểu rất rõ điều đó. Khi sống trong thế giới của quyền lực, sự xếp hạng theo vị trí quyền lực khống chế tất cả. Càng có quyền, người ta càng ham hố và càng phụ thuộc vào nó...Còn chúng tôi, chúng tôi là những kẻ gần như đứng bên rìa guồng máy....Tuy anh bạn tôi là giám đốc một nhà xuất bản nhưng chức đó chẳng qua là miếng bánh mì khô so với những chức vị thật sự béo bở...Miếng bánh khô chẳng quết bơ cũng không phết mứt người ta chỉ gặm lúc quá đói ....Không ai mong muốn phải xài thứ đó suốt đời.....Nhất là khi tuổi đã xế chiều và cần bảo vệ hai hàm răng....

Ngừng lại, Lê Phương quay sang hỏi bạn:

- Tôi nói thế đúng hay sai, đồng chí giám đốc?...

- Đúng trăm phần trăm.

Hai người lại phá lên cười. Lát sau, mặt họ đỏ lên vì cơn cười sặc sụa.

"Họ có một vẻ sung sướng lạ lùng....Một thứ đùa bỡn, cợt nhả thường trực khiến ta đâm ngờ vực. Chẳng hiểu khi nào họ nói thực và lúc nào họ nói bỡn?"

Vũ thầm nghĩ. Không dám bày tỏ nỗi băn khoăn của mình một cách thẳng thắn nhưng cũng không dám tin vào những điều hai gã đàn ông phong tình lẻo miệng này vừa nói. Sau một hồi lặng lẽ uống bia, ông cất tiếng hỏi:

- Liệu các anh có thể chịu được sự đe doạ hay quấy rầy của bộ máy này không?

Trần Phú đặt vại bia xuống bàn, mặt trở lại nghiêm trang:

- Miệng tôi cười đùa nhưng óc tôi đã tính đủ nước cờ cho việc anh nhờ cậy. Tôi biết anh là người có bản tính cả lo. Thêm nữa, suốt đời anh chỉ quen với ngôn ngữ chính thống, thứ ngôn ngữ nghiêm cẩn của các chính khách và các nhà quản trị hành chính. Gặp lũ lông bông như bọn tôi đây, anh có đôi phần hoảng hốt cũng là điều dễ hiểu. Thế nên, tôi sẽ lý giải mọi sự một cách cặn kẽ cho anh yên lòng.

Lần đầu tiên từ khi gặp lại Trần Phú ông thấy anh ta có một vẻ mặt nghiêm trang. Có lẽ anh ta muốn làm dịu cơn phấp phỏng trong ông hơn là để chứng tỏ khả năng giữ tư thế long trọng của kẻ có chức quyền, cho dù thứ quyền hạng bét:

- Tôi có cô em gái lấy chồng bác sĩ, chính là đứa vẫn làm bánh Ma-đơ-len, bánh ga-tô và nấu các món ăn đem vào đây nuôi tôi. Vợ chồng nó vô sinh, đã từ lâu muốn kiếm con nuôi nhưng mọi người, mà trước hết là tôi ngăn cản. Nuôi con nuôi là một cuộc phiêu lưu nguy hiểm, bởi đa phần những đứa bé bị cho hoặc bán đi đều có một lịch sử bất thường, chứa đầy những yếu tố bất lợi cho sự phát triển tâm sinh lý. Tuy nhiên, ai cũng biết rằng cáng đáng một đứa bé bị bỏ rơi là việc phúc đức. Việc này có thể làm với một người bình thường huống chi đối với giọt máu của một bậc cao nhân? Anh yên tâm đi. Tôi chưa hỏi ý kiến em tôi nhưng chắc chắn không có gì trở ngại. Chúng tôi sẽ tuyên bố rằng chúng tôi tìm được một đứa con nuôi. Và rằng chính anh đem cho chúng tôi, ở ngay đây, trong bệnh viện này. Sự thật ra sao, ta sẽ nói đúng như vậy. Anh, với danh nghĩa là người đã quen biết tôi hồi ở trên chiến khu Việt bắc. Sự hiểu biết của chúng tôi chỉ cần hạn định ở mức đó, không hơn một ly. Một đứa con gái mười ba tuổi không có tiền án tiền sự, chưa từng lừa lọc, giết hại ai, nếu muốn gây sự cũng khó tìm ra duyên cớ...

- Cảm ơn anh....

Vũ đáp, không khỏi hồi hộp và cảm động. Tuy nhiên, ông vẫn chưa đủ tin vào những gì đã diễn ra trong cuộc đối thoại ngắn ngủi vừa rồi . Có thể điều đó quá đẹp để là một sự thật....Uống liên tục vài ngụm bia, ông hắng giọng rồi gặng hỏi:

- Nhưng chúng ta giả sử rằng....Rằng họ có thể nói toạc ra sự thật...

- Họ không thể...Và nếu ai dám nói thế tôi sẽ tuyên bố rằng họ là kẻ phản động, vu cáo bôi nhọ lãnh tụ tối cao....Từ bao năm nay, đảng và nhà nước đều tuyên truyền giáo dục dân chúng rằng lãnh tụ của chúng ta là vị cha già dân tộc, người suốt đời tranh đấu vì độc lập và tương lai của đất nước nên chưa bao giờ có hạnh phúc riêng tư....Tôi sẽ nói đúng trăm phần trăm tất cả những bài thuyết giáo của ban tuyên huấn trung ương đảng....Tôi sẽ nhắc lại nguyên si những điều mà họ yêu cầu tôi in ấn từ bao nhiêu năm nay...Tôi sẽ đổ vào mặt họ chính xác những gì họ đã nôn ra một cách có hệ thống...

- Tuyệt vời...

Nhà văn cất tiếng bình luận:

- Không có phương sách nào hữu hiệu hơn là nhặt viên đá trước cửa nhà ông Tư râu ném vào vườn ổi nhà ông Tư râu; là lấy gậy của ông chánh tổng đập vào đầu ông chánh tổng....Tương kế thì tựu kế...Đòn phản công kiểu này cũng đã có từ hàng ngàn năm nay...Vào thời hiện đại, người ta diễn đạt một cách tối tân hơn là: Luật phản hồi của chiếc boomerang....Nào, chúng ta cạn cốc để chúc mừng cho cuộc gặp gỡ hôm nay...

Họ cạn cốc....Nhưng nỗi băn khoăn vẫn không buông tha Vũ. Sau một hồi đắn đo, ông lại cất tiếng:

- Tôi không dám phiền anh nhiều đến thế. Thực sự, tôi cảm thấy không yên lòng....Nếu anh ưng thuận, tháng tháng tôi sẽ cho thư kí mang tiền và thực phẩm tới góp phần với gia đình...

- May mắn thay chúng tôi chưa cần đến tiêu chuẩn thực phẩm của các anh...Nói cho cùng, thứ tem phiếu đó chẳng đủ nuôi một con mèo, theo cái cách người ta vẫn nuôi mèo ở đất Hà thành này từ bao nhiêu năm trước...

Trần Phú đáp. Chừng như đoán được rằng ngần ấy lời lẽ vẫn chưa đủ khiến cho ông hết băn khoăn, anh ta đưa mắt nhìn quanh. Khi thấy căn phòng vắng teo, chỉ còn họ là những người khách cuối cùng, anh ta hạ giọng giảng giải:

- Chúng tôi tuy không thực giầu có nhưng là dân Hà nội cũ, phải biết dắt lưng ít tiền. Chúng tôi không thể tin tưởng vào sự đưa đường chỉ lối của những kẻ chiều hôm trước còn ngồi vỉa hè, dốc ống bơ ra đếm mớ xu lẻ thiên hạ bố thí, sáng hôm sau đã nhẩy lên ghế bộ trưởng bộ tài chính nhờ ân sủng của cách mạng ...Không, chúng tôi chẳng đến nỗi ngu ngốc như vậy. Tiền của chúng tôi không thể gửi vào ngân hàng nhà nước, cũng chẳng thể khai báo với các quan chức vốn dĩ là bọn ăn mày...Chúng tôi phải tìm cách đổi ra thứ gì đấy....khả dĩ có thể chôn xuống gốc sấu hay gốc cam....Đơn giản thế thôi...Giờ, anh đã yên lòng hay chưa?...

- Vâng.

Vũ đáp, và mặt ông lại nóng rát như vừa bị tát. Lần đầu ông nghe những lời lẽ như thế. Rủi ro thay, nó lại là sự thật. Vậy thì trên cõi đất này còn có biết bao nhiêu sự thật bị bóp họng hoặc bị chôn vùi?...

Vừa lúc ấy, tiếng kẻng cất lên , vang rền không trung. Nhìn ra sân, đã thấy gã trai ngớ ngẩn, to như hộ pháp đang ra sức nện búa vào thanh tà-vẹt. Cả ba người chẳng ai bảo ai đều đứng lên:

Vũ nói:

- Đã đến giờ ăn cơm trưa. Chào hai anh, tôi phải về phòng.....Cảm ơn về tất cả những gì các anh đã nói....

- Ồ, đại ca....Chớ nên khách sáo. Mọi thứ đều ở trong tầm tay. Giờ tôi phải tiễn anh bạn ra phố...Chúc đại ca ngon miệng. Anh cứ chuẩn bị đồ cho cháu, được đến đâu hay đến đấy, không cần thiết cầu toàn. Phần còn lại em gái tôi sẽ lo...Tuần sau là chúng tôi có thể đón cháu được rồi...

Trần Phú đáp rồi hai gã khoác tay nhau ra cửa viện. Ông quay lại khu nhà điều trị, đi trên sân bê-tông mà bập bỗng như bước trên mây....

"Quá đẹp để có thể tin là sự thực.!.."

"Ai từng nói câu này nhỉ?..."

Ông vừa đi vừa ngẫm nghĩ, lòng chưa hết xốn xang. Hết cầu thang, cô y tá trực phòng đã tiến lại trước mặt ông, miệng cười tươi tắn:

- Mời bác về xơi cơm cho nóng. Cháu đặt ở trên mặt tủ rồi.

- Cảm ơn cô nhiều. Tôi về ngay đây.

Cô gái thoăn thoắt bước đi nhưng chợt nhớ ra điều gì đó nên vội vàng quay lại:

- Bác có thư nữa ạ....Cháu đã bỏ vào ngăn kéo tủ vì sợ gió thổi bay hoặc ai đó tò mò giở ra xem...

- Ô...Cảm ơn cô. Có tí tuổi mà đã cẩn thận thế?...

- Bác quá khen. Cháu chưa bao giờ được coi là người cẩn thận ....Hồi cháu ở nhà mẹ cháu vẫn đặt tên là "con quạ mổ, ruột để ngoài da"... Nhưng ở xã, thư của cháu thường bị bóc trộm nên ...

- Nên cô có kinh nghiệm về sự tò mò và thói bóc trộm thư của người khác ...Đó là điều các cụ vẫn gọi "đứt tay mới hay dao sắc"....Đúng không?...

- Thưa bác, đúng thế ạ...

Cô cất tiếng đáp hồn nhiên và lại cười, nụ cười khiến gương mặt cô ngời sáng. Họ chào nhau, cô gái xuống cầu thang và Vũ trở lại phòng. Ông rảo bước, không khỏi tò mò vì chưa đoán được ai gửi thư cho ông:

"Ai có thể gửi thư cho ta vào lúc này?...Sáu chăng?...Y thường gửi những dòng chữ ghi nguyệch ngoạc trên trang giấy xé ra từ cuốn sổ, không bao giờ có phong bì để kẻ cầm thư dù là lái xe hay cần vụ đều có thể đọc được một cách tự do, một thứ thân ái xuồng xã được bộc lộ đầy dụng ý, làm như giữa hai người có một tình bạn thâm căn cố đế hay rất nhiều đồng loã, đồng tình...Nhưng thường y chỉ gửi những bức thư kiểu đó khi cần có một cuộc gặp gỡ đột xuất. Lúc này, ta đang nằm viện, điều đó là bất khả. Còn để thăm hỏi, ngay hôm ta vào viện y đã cử người mang quà bánh vào rồi, một sự chỉn chu theo nghi thức. Chắc chắn không thể là y, vậy thì ai?... ..Ai có thể là tác giả bức thư này, bức thư đầu tiên kể từ ngày ta được đưa vào viện?...

Vân chăng?...Hẳn là cô ấy muốn đề nghị ta tha lỗi hoặc dàn xếp lần chót cuộc thoả hiệp?...Trở lại mái nhà xưa, trong tâm hồn rách nát và một mối tình chẳng còn tình mà chỉ còn lại cặn bã?... Trở lại mái nhà xưa để tiếp tục ăn những bữa cơm lặng lẽ, một người nhìn ra sân còn người kia nhìn vào trong bếp. Sự liên kết bởi thói quen ẩm thực và bởi thiếu phương tiện bếp núc tự do?...Trở lại mái nhà xưa vì biệt thự đó là tiêu chuẩn của quan chức cách mạng và người đẹp Tố Vân vẫn cần đến danh nghĩa của ông chồng như cần đến một tiện nghi quen thuộc?...Hoặc vì nàng còn một đứa em trai tồi bại và một đứa con trai vô dụng mà nếu không có ta chắc chúng chẳng thể tìm được chốn dung thân?..."

Trong phòng, tiếng thìa bát lanh canh đã vang lên. Những người bệnh ngồi ăn ngay trên giường, người nhà của họ trải đụp các tấm nhật báo lên chăn để hứng thức ăn rơi vãi. Xuất cơm của Vũ đặt trên mặt chiếc tủ nhỏ, nhưng vì vừa uống bia và ăn bánh rán nên ông còn ngang dạ. Mở ngăn kéo tủ, ông lấy lên chiếc phong bì tự dán bằng giấy kẻ sọc ngang của học trò:

"Thư của thằng bé....Vậy là nó đã biết viết thư....Bức thư đầu tiên nó viết trong đời ..."

Ông giữ nguyên chiếc phong bì trên tay, bồi hồi nhớ lại đứa bé trai lẫm chẫm bước trong phòng, giọng bập bẹ khi nó tập nói, bàn tay ngọng nghịu khi lần đầu nó giằng thìa trong tay người lớn để tự xúc cơm ăn.... Những hình ảnh ấy còn tươi mới như hôm qua, vậy mà giờ đây nó đã biết viết thư cho ông, đàng hoàng như một kẻ trưởng thành.

Con trai: Trần Trung.

Kính gửi cha: Trần Vũ.

Ông nhìn lần cuối tấm phong bì dán bằng cơm nguội dầy cóc cách rồi xé ra, lấy thư đọc:

"Cha yêu quý,

Con viết thư này gửi cha, biết cha đang nằm trong viện mà chẳng có cách nào rời khỏi nơi đây để về. Từ trường sơ tán xuống huyện hơn bốn mươi cây số nhưng không có xe ca, chỉ có xe ngựa. Mỗi chuyến xe ngựa chở tám khách nên vé những năm ngàn đồng, vậy mà con để dành hai năm nay mới được ba ngàn rưỡi. Con có thể đi bộ xuống phố nhưng nếu vậy chẳng đủ thời gian quay lên và nhà trường sẽ kỉ luật. Không an ủi được cha lúc cha đang đau ốm như vầy, con thật là có lỗi. Xin cha tha thứ cho con. Con chỉ biết lậy trời cho cha mau lành bệnh trở về công tác như thường. Ở đây, chúng con vẫn học tốt. Thỉnh thoảng Vinh có nghỉ học vì đau bụng, nhưng con vẫn chép bài cho anh. Tuần trước, mẹ Vân lên đây thăm chúng con, có vẻ rất lạ lùng. Con chẳng hiểu chuyện gì xảy ra dưới Hà nội nhưng mẹ Vân nhìn con chằm chằm rồi bỗng nhiên nói: Chỉ vì anh mà gia đình chúng tôi tan nát...

Cha yêu quý, con rất khổ tâm nếu con thật sự là nguyên cớ gây nên sự đổ vỡ trong gia đình. Con chỉ cần biết con là con đẻ của chính cha, điều đó đã là hạnh phúc. Đối với con, như thế đủ rồi. Chị Nghĩa cũng vậy. Chị ấy viết thư cho con, bảo rằng xin cha một tấm ảnh của mẹ, rồi giấu vào trong hòm đừng để mẹ Vân nhìn thấy. Khi nào ra viện, cha hãy cố gắng tìm cho chúng con cha nhé. Con sẽ làm đúng như lời chị Nghĩa. Con không muốn làm khổ mẹ Vân cũng như làm thiệt phần của anh Vinh. Cha có thể cho con về sống dưới thôn cùng với bác cả. Hết hè này, con chuyển về học ở tỉnh cũng không sao. Miễn là gia đình ta được êm ấm, mẹ Vân và anh Vinh được hài lòng. Con tin rằng chị Nghĩa sẽ rất vui vì có con, như thế ở nhà quê bác cả sẽ đỡ buồn. Như thế, cha cũng sẽ được nhẹ gánh và mọi người đều vui vẻ.

Con cũng nói với cha rằng mẹ Vân lên đây với một chú to lớn, đeo kính đen. Chú ấy chưa từng đến nhà ta bao giờ và có vẻ cư xử rất kì lạ. Thừa lúc mẹ Vân đang đứng với anh Vinh chú ấy kéo tai con lên bảo "Tao xem tai thằng này mềm hay cứng", rồi cầm tai mà xách bổng con lên. Con đau quá nước mắt chảy ràn rụa. Con suýt hét lên mà phải cố nghiến răng lại vì sợ mẹ mắng. Người đàn ông này khiến con vô cùng sợ hãi. Con chẳng hiểu vì sao ông ta lại độc ác với con như vậy....Cha yêu quý, cha hãy cho con về quê, rồi thi thoảng cha về thăm hai chúng con. Như thế, mọi việc sẽ ổn thoả hơn.

Con vẫn luôn cố gắng học hành để cha khỏi lo buồn. Con cầu chúc cha mau lành bệnh để cha con ta mau đến ngày gặp mặt.

Con trai của cha hôn cha: Trần Trung.

Vũ vội vã tựa lưng vào tường vì choáng váng:

"Ôi đứa con trai của ta....Tội nghiệp cho nó. Một đứa con hiếu nghĩa mà chẳng được làm con. Một đứa bé sinh ra đã đầy lòng nhân ái mà phải sống giữa thế giới của những kẻ bất nhân, bất nghĩa ..

Ôi, tội nghiệp cho chính ta, kẻ nhân danh làm cha mà không bảo vệ được đứa con sống dưới vòng tay bảo trợ của mình....

...Cũng tội nghiệp cho chính ta vì ta chẳng còn cơ hội để sinh ra một đứa trẻ có thiện tâm như vậy....Cuộc tình với người đẹp chỉ tạo nên một thứ sản phẩm không những vô đức vô năng mà còn đầy tì vết, dòng máu khốn khổ của ta đi lạc vào một thân xác tối tăm và một tâm hồn còn tối tăm hơn nữa. Đấy thật sự là một cuộc thất bại toàn phần ...

Người đàn bà của ta ! Người đẹp Tố Vân. !.....

Tại sao cô ta có thể hành động độc ác như vậy?..Người đàn bà ta đã ấp ủ hơn ba mươi năm trời....Một quãng thời gian dằng dặc với biết bao kỉ niệm....Nếu không còn tình ít ra cũng còn lại những níu kéo cuối cùng của nghĩa lý và đạo đức. Một thứ liên đới vô hình buộc con người phải dừng lại trước những giới hạn. Nhưng người đàn bà này không còn biết đến giới hạn. Thật kì lạ là cho đến tận giờ ta mới hiểu con người đã đầu gối tay ấp bấy lâu...Cuộc đời quả là một sân khấu trường kì mà đến lúc hạ màn người ta mới biết được trắng đen, bởi sự thật được dấu kĩ phía sau những mánh khoé của tích tuồng nhằm lừa bịp hoặc đánh đố khán giả. ...Cuộc đời cũng giống như trò phù thuỷ trong đó những loài cóc nhái có thể nhờ phù phép mà biến thành các mỹ nhân hoặc quả bí có thể biến thành cỗ xe ngựa thếp vàng....Ôi, chẳng phải ngẫu nhiên mà từ ngàn xưa thiên hạ đã đọc đi đọc lại chuyện Liêu trai, bởi chẳng thiếu gì kẻ sống mê man trong vòng ân ái cho đến lúc giật mình thức tỉnh thì hoá ra đã chìm đắm bao nhiêu năm trong lạc thú với bộ xương người ...

Vợ ta !...Tố Vân....Cô ấy đã biến thành kẻ thù tự bao giờ vậy?...Gã đeo kính đen kia chẳng phải là ai khác mà chính là tay chân của Sáu. Chúng giở trò hành hạ thằng bé, đó là dấu hiệu chúng sắp triệu tập ta để đưa ra một yêu cầu nào đó, với người cha đích thực kia. Điều kiện sinh tồn của kẻ này trở thành cây gậy chỉ huy với người khác...Ngón đòn này chẳng có gì mới nhưng điều đáng kinh ngạc là chính cô ta chấp nhận hiệp đồng. Chính cô ta dẫn kẻ thù nghịch đi làm điều đê tiện ấy?... Tại sao , chính cô ta?......"

Những đợt sóng đen đột ngột hiện lên trước mắt ông. Khi ông vừa nhìn thấy chúng thì chúng đã vươn lên như những chiếc vòi bạch tuộc khổng lồ. Và rồi chúng tiếp tục dâng cao, cao hơn cả những mái nhà và khi dội xuống, chúng khiến ông có cảm tưởng như tấm thân ông tan nát thành bọt sóng. Tiếng gầm gừ của thuỷ triều dữ tợn và bí ẩn làm sao, dường như chẳng còn là tiếng biển động mà là tiếng gầm rú của những đàn thú khổng lồ thời hồng hoang. Đột nhiên, ngọn thuỷ triều biến mất và thay vào đấy là những đàn khủng long đang chạy rầm rập trên một thảo nguyên mênh mông. Đuổi theo chúng là những lưỡi lửa khổng lồ tràn lên nhau, chồng gối lên nhau như một đại dương đỏ rực tràn ngập đến chân trời. Gió dồn thổi tới đâu, mọi loài thảo mộc đều biến thành lò lửa rừng rực tới đấy. Những cơn bão lửa quây bọc, vây bắt, tàn sát bầy thú. Ông cảm thấy ngọn lửa ấy thiêu đốt chính ông và khiến mắt ông toé lên những đốm lửa than.

"Tại sao ta lại hoá thân thành một con thú thời hồng hoang?...Thực hay mơ mà kì cục như vậy?..."

Ông nghe rõ tiếng lửa bị gió táp phần phật quanh mình. Rồi lửa táp vào mặt ông, khiến ông muốn hét lên:

"Nước....Cho tôi nước....Gọi xe cứu hoả ...."

Nhưng hình như ông không thể há miệng ra nổi. Hình như ông ngã xuống, dưới bàn chân khổng lồ của khổng long khác và nhìn thấy trước ông sẽ biến thành một đống thịt xương vụn nát dưới bàn chân ấy....

Rồi ông nghe mơ hồ tiếng gọi vẳng đến từ đâu đó:

- Bác sĩ....Gọi bác sĩ...

- Cấp cứu đâu?.....Đem bình ô-xy đến đây...

Một ý nghĩ mơ hồ thoáng qua óc ông:

"Ô, họ lại đem bình ô-xy đến cho anh chàng sĩ quan thở khò khè, môi thâm như mận Lạng sơn ....Ồ, anh này chết rồi mà còn ngốn khá nhiều bình ô-xy của viện..."

Bất thình lình, ông nghe tiếng cá quẫy bên tai. Ông chợt nhớ đó là tiếng cá quẫy trong cái ang mẹ ông thường nhốt cá ở đầu hồi, những con cá chen thách nhau tanh tách suốt ngày đêm. Bên trên ang cá ấy là mái ngói chạy dài với đường máng. Còn bên trên mái ngói là bầu trời, một thinh không cao ngất tràn ngập ánh dương, một màu xanh lơ vô chung vô thuỷ....


Quân y viện 306 nằm ở bìa rừng, không quá xa dòng suối, điều kiện tối cần thiết để duy trì một bệnh viện đa chức năng. Toàn bộ các khu nhà quây tụ trên cao, dưới bóng những tán cây um tùm, dày đặc đến nỗi những ngày hè chói chang nhất ánh sáng cũng không lọt qua được. Trong bóng râm miên viễn đó, lủng lẳng các chùm phong lan núi lẫn các cây tổ quạ, loài cây kí sinh có sức nảy nở lạ thường. Phía sau viện, là một hang đá lớn mà những lúc bị bom dội cấp tập, có thể chuyển ba mươi thương binh nặng vào trong. Nhà bếp, phòng ăn tập thể, và kho thuốc men lẫn y cụ đều dồn vào một khóm ngay sát cửa hang, nơi người ta có thể thường xuyên hứng nước khe để nấu ăn và lau rửa các y cụ bởi nước suối chỉ có thể dùng giặt giũ đại trà những thứ quần áo và đồ bẩn. Điều bất tiện là nước khe không đủ dùng. Mà nếu tắm gội bằng nước suối thì sớm hay muộn tóc cũng rụng. Đối với đám đàn bà con gái, có một cái đầu trọc lốc cũng đau khổ ngang ngửa như bị bom tiện cụt chân tay. Thế nên ở nơi đây, vệ sinh thân thể trở thành khổ nạn. Các cô đành phải chờ đến lúc lặn mặt trời mới dám xách nước khe về lán gội đầu. Còn tắm, phải chờ những đợt mưa nhiều, nước khe chảy liên miên không cạn. Nếu không, hoặc là xách nước suối lên đánh phèn cho lắng, hoặc là lau người theo kiểu dân vùng sa mạc. Sau một ngày làm việc căng thẳng, tối đến lại hì hục xách nước từ dưới suối lên cửa hang, mò từng bước trên con đường dốc ngược lởm chởm đá. Thêm nữa, đeo năm sáu ống lồ-ô nước trên lưng leo dốc là cách thức của người vùng núi cao. Đối với những cô gái đồng bằng, việc đó cũng giống như một thứ lao động của tù khổ sai, phải nghiến răng lại mà chấp nhận.

Đầu xuân năm 1969, y viện đầy ắp thương binh. Hai người phải nằm đổi đầu đuôi trên một chiếc giường hẹp như cáng tải thương, đặt ngay trên những bệ gỗ cao hơn gang tay chút xíu. Số thương binh chờ phẫu thuật nhiều gấp ba con số bình thường khiến từ bác sĩ đến các nhân viên phải chia ca đổi nhau làm việc quần quật không nghỉ. Đèn phòng phẫu sáng suốt ngày đêm. Tiếng kêu gào, tiếng rên rỉ, tiếng cãi cọ cấm cảu và cả tiếng hát của đám thương bệnh binh đông đúc khiến y viện có một vẻ náo loạn mà trước đó nó chưa từng biết đến. Mười hai cô gái của y viện không còn thời giờ xách nước tắm, đành phải quấn ngược tóc lên cao mà nhảy ùm xuống suối, người nọ bảo người kia:

"Thây kệ, tắm cái đã, rồi muốn ra sao thì ra...."

Thời gian căng thẳng kéo dài hơn một tháng, sau đó số thương binh nhẹ được chuyển sang điều trị tiếp tại một binh trạm cách đó ba cánh rừng. Lúc này, các cô gái được hưởng một sự đền bù ngoài sức tưởng tượng: trong đám thương binh còn ở lại, xuất hiện một hoàng tử quyến rũ, một miếng mồi thật ngon lành cho tất cả các nữ nhân đang đứng bập bênh trên ranh giới giữa giai đoạn chót của tuổi thanh xuân với sự lỡ thì. Đó chính là trung tá Hoàng An. Hoàng An được coi như người đàn ông lý tưởng vì ngoại hình đã đành, nhưng cũng còn vì lòng can đảm mà không phải bậc nam nhi nào cũng có. Anh chẳng hề cất một tiếng kêu trong suốt cuộc phẫu thuật không gây mê. Một quân y viện nằm sâu như Viện 306, chẳng thể có đủ thuốc mê cho các ca bình thường nhằm cắt bỏ tứ chi. Hoàng An bị mảnh pháo tiện đứt cánh tay bên trái. Về đến viện, vết thương bị ga-rô quá lâu trên đường đã bắt đầu gây hoại thư, và người ta phải tháo khớp vai để cứu anh. Điều lạ lùng là Hoàng An hồi phục rất nhanh, trong một diễn tiến gần như thần bí. Đám thương binh xung quanh dù trẻ gấp đôi tuổi đều nhìn anh với con mắt vừa thán phục vừa ghen tị. Ngay khi vết thương chưa kịp mọc da non, anh đã dạo chơi nhởn nhơ khắp vùng, đã đặt bẫy bắt dúi, bắt nhím, bắt chồn cho nhà bếp cải thiện bữa ăn. Rồi khi vết thương lên da non, anh tự nguyện xách nước suối lên viện giùm các cô gái. Chỉ bằng cánh tay còn lại, chàng trung tá này có thể làm mọi thứ việc mà một gã trai khác đủ cả hai tay chưa chắc dám đảm đương. Hoàng An có thể đeo một chùm mười lồ nước trên lưng, tay phải xách thêm bốn năm lồ khác. Với đôi chân của người thợ săn, anh leo dốc như sơn dương. Mười hai cô gái viện nhìn anh với con mắt mê mẩn. Trừ dăm cô đã thề non hẹn biển với đồng nghiệp, số còn lại đều đưa mắt liếc nhau xem ai đã lọt mắt xanh của hoàng tử có trái tim vàng?...Nhưng dường như Hoàng An đã chia đều lòng tốt của anh cho tất cả mọi người, và như thế chưa cuộc chiến tranh nào xảy ra giữa đám các cô gái chòng chành chờ đợi ...Cũng vì thế, khi vết thương của anh đã lành, viện trưởng vẫn nấn ná giữ anh lại thay vì chuyển anh sang một binh trạm để chờ lệnh quân khu. Nghiễm nhiên, Hoàng An trở thành một nhân viên không phiên chế. Anh có vẻ vô cùng thoả mãn với vai trò mới. Không ai nói, người ta cũng hiểu rằng ngày một ngày hai, anh sẽ được chuyển về hậu phương vì mất khả năng chiến đấu. Khi sắp được hưởng một thứ quyền lợi tối thượng như vậy, cần phải tận tình giúp đỡ tất cả những ai đang còn trụ lại nơi nguy hiểm và gian lao. Hẳn là nghĩ như thế nên Hoàng An không tiếc sức lực cũng như thời gian để góp phần cải thiện cuộc sống chung và giúp đỡ mọi người.

Một buổi sáng giá buốt, sương mù trùm phủ khắp núi non, bỗng tiếng còi xe vang inh ỏi. Ai đó đứng từ xa gào lên:

- Xe thuốc của quân khu đã tới....

Mọi người trong viện đổ ra, ngơ ngác nhìn nhau:

- Sao điện báo nói hai ngày nữa xe mới đến?...

- Ai biết được?...Có lẽ vắng bom oanh tạc nên đường thông ...

Rồi từ y viện trưởng tới các nhân viên đều lũ lượt tụt dốc xuống đường để nhận thuốc và các y cụ. Hoàng An nhập vào đoàn quân đó. Đúng là xe chở thuốc của quân khu và cũng đích xác vì máy bay oanh tạc của Mỹ nghỉ cuối tuần nên đường thông suốt. Ai nấy đều hỉ hả vì ngoài thuốc còn có kẹo bánh và thuốc lá sợi. Khi mọi kiện hàng đã được khuân hết xuống, xếp thành đống gọn ghẽ bên lề đường, người lái xe nổ máy cho xe quay lại quân khu tức khắc vì muốn tận dụng thời gian thuận lợi. Xe vừa lăn bánh được vài mét, anh ta chợt hét váng lên:

- Tôi quên.

Đoạn cho xe phanh kít lại, anh ta cúi xuống dưới gầm ghế moi lên một chiếc ba-lô lính cũ nát, lấm lem:

- Viện ta có thương binh nào là Hoàng An không?...

- Tôi đây.

Hoàng An đã nâng kiện thuốc lên vai lại vội vã đặt xuống, đáp lời.

Anh lái xe bảo:

- Trên quân khu có gửi cho đồng chí chiếc ba-lô của một liệt sĩ. Liệu anh ta có thực là họ hàng của đồng chí hay không?...

- Nếu không phải là người thân thích có lý do gì mà họ lại gửi cho tôi?...

Hoàng An vặn lại, mặc dù óc anh thoáng qua những nghi ngờ:

"Ai có thể gửi cho ta?....Không lẽ đây là ba-lô của thằng Mèo Mã Lỳ chết dẫm?.....Ồ không, điều này không tin được. Bởi y họ Mã, sắc tộc Mèo và ở tận núi Hoàng liên sơn....Không ai có thể nhầm lẫn một cách điên rồ như thế...."

Anh lính nhìn Hoàng An, phân vua:

- Không phải chúng tôi tò mò nhưng vì địa chỉ đề rất mơ hồ....Thêm nữa, trong quân khu này có đến sáu người tên là Hoàng An. Phòng tổ chức còn đắn đo vì đồng chí quê ở Lạng Sơn nhưng liệt sĩ này lại là người Tầy tỉnh Thái nguyên.

- A....

An nở nụ cười xí xoá:

- Tỉnh nào cũng là đất nước Việt nam cả...Người Kinh làm ăn buôn bán khắp nơi, người Tầy chúng tôi tuy không giỏi giang bằng nhưng cũng biết đi từ tỉnh này qua tỉnh kia để kiếm sống.

- Ô....Nếu vậy thì đồng chí cầm lấy...Tôi sẽ báo cáo với quân khu rằng kỉ vật đã đến đúng địa chỉ của người thân. Lẽ ra ...

Anh ta ngần ngừ một lát rồi nói tiếp:

- Lẽ ra, theo nguyên tắc, đồng chí phải kí giấy biên nhận. Nhưng vì tôi còn chuyến hàng thứ hai cho y viện này, mà đồng chí còn ở lại đây nên lần sau ta sẽ làm việc đó.

- Nhất trí. Tôi sẽ chờ đồng chí lần sau.

Hoàng An đáp.

Anh ta trao chiếc ba-lô rồi xiết chặt tay anh:

- Chúc đồng chí mạnh khoẻ...

- Cảm ơn. Tôi cũng chúc đồng chí lên đường may mắn....

Rồi chiếc xe nổ máy ra đi. Lần này, nó đi thật sự.

Hoàng An cúi xuống nhìn chiếc ba-lô bẩn thỉu hôi hám như chiếc bị ăn mày, đoán rằng nó đã bị ném trong hang đá khá lâu, ít nhất cũng một hai năm nên những vết máu khô mới mốc meo thành tầng và các vết lỗ chỗ dán nhấm mới nhiều đến thế. Trên nền vải lem nhem màu cỏ úa ngả sang đen xỉn, găm một mẩu giấy trắng mà ai đó viết không lâu:

Kỉ vật của trung uý Hoàng huy Tú, tiểu đoàn 115 quân khu 18, đại đội 3, trung đội 1, liệt sĩ trên chiến trường Thuận hoá. Đề nghị chuyển cho đại uý Hoàng An , thuộc tiểu đoàn Một, tiểu đoàn trưởng Đinh quang Nhã.

Anh tê lặng một hồi. Hoàng văn Tú, cái tên gợi cả một thời ấm êm, hạnh phúc. Tú là chồng của nàng My, em gái anh. Gia đình Tú ở sát thị xã Lào Cai, một vùng đất chen chúc những người thiểu số khác sắc tộc. Cha Tú là thợ rèn nổi tiếng, chắt nội của một người thợ rèn còn nổi tiếng hơn, được đặc trách rèn vũ khí cho các tướng lĩnh và vương hầu cai quản miền biên giới. Đến thời cha Tú, người ta không còn sử dụng gươm dáo nên ông chỉ rèn các loại nông cụ và dao, búa. Nhưng dao đi rừng của ông được coi là vật tuỳ thân tuyệt hảo đối với người miền núi, còn các loại dao nhọn, dao bầu, dao bản vuông...của ông được coi là dụng cụ kiếm sống không thể thiếu của đám dân bán thịt trong vùng. Cuộc hôn nhân của hai đứa trẻ thành công một cách hoàn toàn ngẫu nhiên, nhờ bà mối. Một người đàn bà còn ròn rã xinh tươi, tuy đã ngũ tuần. Bà mối này vốn buôn lâm sản ở Lào Cai, là hàng xóm liền vách với nhà Tú nhưng lại có người chị ruột lấy chồng bản Xíu. Năm nàng My mười bảy, bà về bản Xíu chơi, gặp cô thiếu nữ nhu mỳ liền vội vàng quay lại Lào Cai, rồi tức tốc dẫn Hoàng huy Tú lên Thất Khê tìm con gái ông trưởng bản. Vừa chạm mặt mỹ nhân tháng trước, tháng sau Tú đã cùng cha mẹ đem lễ vật đến nhà chú thím anh xin cưới. Dịp hôn lễ của họ chính là dịp anh đặt chân tới thị xã Lào Cai lần đầu tiên....Rồi sau đó, chẳng còn cơ hội nào quay về đấy...

Năm tháng trôi qua, gia đình Tú đã chuyển xuống sinh sống ở tỉnh Thái nguyên lúc nào mà anh không hay biết?....Tuy trong lòng nóng như lửa đốt, nhưng Hoàng An vẫn khoác chiếc ba-lô vào cánh tay rồi đặt kiện thuốc lên vai, tiếp tục leo dốc cùng đám nhân viên quân y viện. Phải ba tiếng đồng hồ họ mới chuyển hết được số hàng vào nhà kho. Chờ mọi người tụ tập trong bếp ăn để chia bánh kẹo, An xách chiếc ba-lô của Tú đi về phía sườn dốc dẫn xuống dòng suối, lúc này chẳng một bóng người. Ở đó, anh mở ba-lô một cách cẩn trọng, lấy ra một bộ quần áo thu-đông, một ống thuốc đánh răng đã dùng dở khô đét, một chiếc bàn chải đã toẽ hết gai, một chiếc lược sừng nhỏ và một phong bì bọc dán chằng chịt bởi những lớp vải ni-lông, hẳn được cắt ra từ một tấm áo mưa cũ. Đoạn anh dốc ngược ba-lô lên rũ một hồi để cứt dán còn bên trong rơi xuống. Một cây bút bi rơi xuống theo. Mùi hôi mốc bốc lên cùng mùi vải ẩm.

"Đây là tất cả những gì còn lại của một người đàn ông đẹp đẽ và cường tráng. Tất cả những gì còn lại của một người chồng và một người cha. Gia sản của trung uý Hoàng huy Tú. Kỉ vật mà ngày nào đó ta có thể trao lại cho nàng My cùng những đứa con của nàng....

Anh ngồi như thế hồi lâu trước mớ vật dụng vô nghĩa rồi mới giở bức thư của Tú ra. Thư dán quá kĩ, chẳng có cách gì gỡ được những lớp vải ni-lông chằng đụp như vậy. Trong túi anh không có một lưỡi dao, ngay đến cả chiếc bấm móng tay cũng không có nốt. Sau cùng, anh đành tìm một lưỡi đá nhọn ven dốc, mài lớp bì thư vào đó theo cách những người nguyên thuỷ cọ đá để lấy lửa cho bùi nhùi. Khoảng chừng mươi phút sau, anh đã có thể móc ngón tay vào lỗ rách để xé toang các lớp vải quấn ra. Thư của Hoàng huy Tú viết trên giấy kẻ ô của học trò vỡ lòng. An trải tờ giấy lên đầu gối, đọc:

Anh thân mến,

Kể từ ngày anh tiễn nàng My lên Lào Cai, bao nhiêu năm tháng đã trôi qua, bao nhiêu sự việc đã xoay chuyển. Tuy không còn cơ hội gặp nhau nữa, nhưng em chẳng bao giờ quên anh bởi nàng My luôn luôn nhắc nhớ tới anh. Chúng em đã có hai con, hai đứa đều là con trai cả. Gia đình em đã chuyển xuống sinh sống ở Thái nguyên sau ngày anh nhập ngũ, bởi ở dưới đó, cha em tìm được một đầu mối bán buôn lớn và xưởng rèn gia đình có cơ phát triển. Cha em cũng đã già nên phần sản xuất do chúng em đảm nhiệm đồng thời thuê thêm non chục thợ. Em không có điều gì phải phàn nàn ngoại việc trong ba anh em hai người đã phải lên đường. Không rõ tin tức đứa em út nhưng ngày mai chính em sẽ tham dự chiến đấu trên mảnh đất Thuận hoá. Lính bước chân vào đây khó có đường về. Người ta bảo đất này vừa dữ vừa hẹp nên thây người không chôn thành một lớp mà chí ít cũng dăm bảy tầng chồng chất lên nhau. Chiều nay, toàn đơn vị ngồi viết thư cho gia đình, em cũng viết thư cho anh. Ai cũng ngầm hiểu rằng đây là lá thư cuối cùng trong đời lính.

Anh thân mến, anh còn nhớ đêm liên hoan mà anh đã gặp Mã Lỳ hay không?...Chính em cũng có mặt đêm hôm ấy. Chính em là con chồn lủi trong bóng đêm mà anh đã rượt đến tận cửa rừng...Thoạt bước chân đến mảnh đất của anh, em đã thấy anh đứng với Mã Lỳ nên vội lảng tránh. Bởi do tình cờ mà em đã thuyên chuyển về chính đơn vị của anh năm năm sau ngày anh ra đi. Cũng do tình cờ mà em ở cùng trung đội với Mã Lỳ và được gã Mèo này tin cẩn. Có lẽ vì trong đại đội chỉ có hai chúng em là dân miền núi. Mã Lỳ hoàn toàn không biết chúng ta là anh em nên đã kể tất cả mọi sự theo...con mắt nhìn của gã. Vào đêm liên hoan ấy, khi nhìn thấy gã đi với ....bạn mới, em liền đi theo. Em biết chắc điều gã Mèo sẽ làm. Em đã lên nhà gã. Nhà gã nhỏ hơn chuồng nuôi lợn của chúng ta. Mọi người ngồi ăn cháo ngô ngay trên nền đất, lợn chạy xung quanh, thúc mõm cả vào lưng chủ lẫn khách, rồi ỉa lung tung khắp nền nhà...Có lẽ anh khó hình dung được cảnh tượng đó. Nhưng em đã chứng kiến nên em hiểu Mã Lỳ sẽ làm bất cứ việc gì để được tiến bộ....Vì vậy em đã đuổi theo y....

Anh thân mến, còn sự việc này chắc anh đã dự đoán nhưng chưa biết rõ. Nàng Xuân và Nàng Đông đều bị giết cùng năm Con gà(I957), theo cách lấy chầy gỗ đập vào sọ. Thây Nàng Xuân bị ném ven đường ngoại ô Hà nội giả làm tai nạn giao thông còn Nàng Đông bị ném dưới chân cây cầu gỗ bắc qua Khe Lan, trên đường về huyện Thất Khê. Nhưng em cũng chỉ biết điều này ba năm sau, nhờ một người quen...Bố mẹ vợ em và ông Cao đều bị giết vào mùa đông năm Con chó(I958), hơn một năm sau cái chết của hai nàng. Bà mối nhắn tin cho em. Khi em quay trở lại bản Xíu, ba tuần sau cái đêm tai hoạ đó, chỉ thấy tro tàn của hai ngôi nhà sàn. Dân bản nói rằng đêm hạ tuần tháng trước bỗng nghe tiếng máy bay trực thăng đổ xuống khu vực suối Sơn ca. Vì trời rất rét thêm nữa đêm tối đen như mực nên chẳng ai tò mò nhìn ngó. Người ta tin rằng chỉ có máy bay của bộ đội biên phòng vì lý do đặc biệt nào đấy mới bay vào lúc khuya khoắt như vậy. Nhưng khoảng chừng nửa giờ sau hai ngôi nhà sàn bốc cháy. Lúc đấy, dân bản mới hò nhau thắp đèn thắp đuốc đi cứu hộ. Khi họ đến nơi, lửa cháy cao ngất như rồng táp mà mùi săng vẫn bốc sặc sụa nên chẳng ai dám động chân động tay. Nhìn qua đám lửa không thấy một bóng người. Dân bản cứ đứng như tượng nhìn từng cây cột theo nhau đổ. Lửa cháy tới tận hôm sau. Khoảng non trưa, sương quang trời sáng rõ, người ta mới tìm thấy xác ông Cao bị thui đen trong đám than tro. Còn bố mẹ vợ em thì mất tăm, vô hình vô dạng. Huyện phổ biến rằng một đội biệt kích của Mỹ nguỵ từ phía nam bay ra gây hoả hoạn để gieo rắc hoang mang cho đồng bào dân tộc. Nhưng em biết rằng lũ giết người này chính là bọn đã giết Nàng Đông và Nàng Xuân. Cái lý của người Tầy chúng ta chỉ ra như vậy.

Anh thân mến, sớm mai chúng em phải lên đường. Chắc sẽ không có ngày quay lại. Anh hãy cố gắng sống bằng mọi cách để trả mối hận này. Anh hãy bảo bọc nàng My và những đứa con em. Được như vậy, dù ở dưới mồ, em cũng sẽ ơn anh mãi mãi...

Em Hoàng huy Tú.

Chữ kí rắn rỏi, không một chút run rẩy. Nét bút của một tay thợ rèn, quen quai búa từ thuở còn thơ. Anh đặt lá thư xuống. Trời không có gió nhưng tờ thư run rẩy. Những cơn rung động chạy khắp toàn thân khiến anh nổi da gà. Rồi những ý nghĩ nối nhau chạy qua óc não anh như đàn chuột lửa:

"Chúng giết hai nàng bằng chầy gỗ vì đó là cách tiết kiệm và giản đơn nhất cho một cái chết. Chúng giết ông Cao bằng cách đâm chém để thiên hạ ngờ rằng đó chính là cuộc thanh toán trong giới giang hồ bởi ông Cao đã rời bản đi lênh đênh chân trời góc biển hai mươi năm. Chúng bắt cóc chú thím ta lên máy bay để giết họ rồi quăng thây xuống một cách rừng tỉnh khác để không ai còn có thể dò ra tăm tích và để dễ bề tung tin rằng lũ biệt kích giết người, bởi chú ta đương kim vẫn là chủ tịch xã, chức quan bé mọn nhất trong bộ máy quyền lực này....Quả là một bọn sát nhân thành thạo, mọi con tính đều có sẵn trong ngăn kéo bàn giấy của chúng. Tất thảy những người thân của ta đều bị huỷ diệt trong một cuộc cờ. Ta chẳng còn ai trên cõi đất này...Chẳng còn ai...."

Ngọn lửa trong đầu anh bốc như đám cháy hai ngôi nhà sàn mà anh mường tượng. Những đàn chuột lửa không ngừng chạy đi chạy lại, nhảy nhót, khiến anh vừa đau đớn vừa ngứa ngáy, một thứ cảm giác anh chưa từng biết đến và chẳng thể diễn đạt. Rồi đôi mắt anh bỗng nhiên mờ dần, mờ dần trước đám khói mù mịt bốc ra ngay trên đỉnh sọ, tựa hồ hộp sọ đã nứt đôi để phun lên những đám khói ngột ngạt của một cuộc thiêu đốt âm thầm. Một cơn đau khác dưới đám ruột cuộn lên, trào qua cơ hoành, thốc vào hai lá phổi những luồng khí nóng bỏng, dường như ngực anh đã trở thành một chiếc nồi súp-de đầy ứ hơi sắp nổ. Đột nhiên anh cất lên một tiếng thét rợn hồn, một tiếng thét khiến chính anh cũng choáng váng, chính anh cũng chết lặng đi vì không hiểu nó từ đâu tới. Dường như chẳng phải chính anh đã cất lên tiếng thét đó, chẳng phải âm thanh kinh dị ấy vừa thoát ra từ hai lá phổi đầy ứ khí nóng của anh mà đó là tiếng gào của một con quỷ lạ, một loài ngạ quỷ mượn cổ họng người để trút ra tiếng gào của chính nó.

Từ phía quân y viện, ai nấy đều đổ xô ra nhìn. Chưa bao giờ họ nghe thấy một tiếng thét khủng khiếp như thế. Mặc dầu tiếng la hét đau đớn trong những ca giải phẫu thiếu thuốc gây mê là thứ âm thanh tra tấn thường xuyên và đã trở thành quen thuộc nhưng đây là lần đầu họ nghe thấy một tiếng thét kì lạ, trong đó không chỉ có nỗi đau đớn thể chất hay sự thống khổ tâm hồn mà còn cuồn cuộn những con sóng cuồng nộ của một sức mạnh kinh hoàng. Sức mạnh của man dại và thù hận. Bốn phía núi rừng rung động. Mọi người ngừng thở vì sợ hãi. Người ta cho rằng tiếng thét ấy chỉ có thể là tiếng thét của thần sông, quỷ núi, hoặc của người điên. Một người điên khổng lồ hung dữ và đang ở cực điểm cơn kích động.....

Chẳng tìm thấy ai ngoài trung tá Hoàng An. Anh đang ngồi một mình ven con dốc dẫn xuống suối. Một mình anh. Bác sĩ viện trưởng lẫn mọi người đưa mắt nhìn nhau trong khoảnh khắc rồi tất cả kéo nhau đi tới. Khi nghe thấy tiếng chân đám đông vang lên phía sau lưng mình, Hoàng An ngoảnh lại, tuy mặt trắng nhợt nhưng anh đã nhoẻn miệng cười nụ cười dễ mễn mà mọi người quen thuộc:

- Đây là chiếc ba-lô của đứa em tôi, hy sinh tại chiến trường Thuận hoá....Tôi không thể chôn nó, cũng không thể khóc thương nó....Tôi hét lên vì tôi căm thù... Tôi căm thù Mỹ nguỵ....

- Đồng chí An....

Viện trưởng dịu dàng đặt tay lên vai anh:

- Đồng chí hãy về viện nghỉ ngơi....Chiến tranh mà. Tất cả chúng ta có mặt ở đây đều vì cuộc chiến tranh này...Tất cả chúng ta đều phải căm thù Mỹ nguỵ....

*
* * *

Chủ tịch thức dậy lúc nửa đêm. Sau những giấc mơ nặng nề, mắt ông bỗng nhiên ráo hoảnh và tim ông phập phồng, hồi hộp. Tiếng quật bài tu-lơ-khơ của hai chàng cận vệ ở bên ngoài tuy khẽ khàng nhưng vẫn vang lên trong đêm khuya khoắt. Cây kim dạ quang trên mặt đồng hồ chỉ một giờ hai mươi nhăm. Ông kéo tấm chăn lên cằm, lắng nghe những tiếng thì thầm một cách lơ đãng:

- Tám nhép.

- Mười nhép.

- Ji cơ.

- Ka cơ...

- Quy rô ...Mày sắp chết rồi con ơi....

- Chết cục cứt tao đây này, ka rô đỏ chon chót nhé. Tao chờ xem mày xuống cây gì?...

- Con ơi, mày đã đến ngày tận số. ... Át cơ !...Phăng-teo đâu rồi, đem xuất xưởng. Nếu không thì bó gối lai hàng cho xong...

- Thôi được, chịu thua ván này....Nếu có quân phăng-teo chắc chắn tao cho mày sấp mặt keo nữa....Bây giờ là tám ba nhé. Mày vẫn còn nợ tao năm ván. Khó lòng mà gỡ đêm nay, con ơi...

"Chúng nó sung sướng thật, những đứa trẻ chơi loại cờ này. Thắng, chúng ăn vài chiếc kẹo vừng hay kẹo lạc....Thua, chúng bị đối phương vẽ nhọ nồi lên mặt....Ván cờ của chúng không làm tổn hại đến ai, không có máu chảy đầu rơi, cũng chẳng hận thù ân oán...."

Chủ tịch thầm nghĩ. Rồi một gương mặt khác đến với ông, vừa điệp với gương mặt đứa con trai người tiều phu Xóm Núi, lại vừa nhù nhoà trong lớp sương mù tưởng tượng. Ông bất giác buông tiếng thở dài:

"Con trai của ta....Nếu lũ phản bội để cho con được sống, chắc chắn con sẽ có một cuộc sống vô danh vô diện của thứ dân. Con sẽ trà trộn trong đám người đứng ở tầng lớp cuối cùng của xã hội. Ngày nào đó con sẽ chơi bài ăn kẹo lạc và vẽ râu nhọ nồi như mấy chú lính ngoài kia....Nhưng biết đâu con chẳng hài lòng vì cuộc sống vô danh đó?....Và biết đâu những ván bài ăn kẹo lạc chẳng đem lại cho con một hạnh phúc thật sự trên cõi đời?...."

Để xua đuổi những ám ảnh, chủ tịch giơ tay định bật cây đèn ở đầu giường để đọc sách nhưng chợt nhớ ra rằng làm như vậy cuộc chơi cờ của hai chàng trai ắt phải dẹp bỏ. Họ sẽ phải băn khoăn hỏi xem vì sao ông mất ngủ?...Có cần gọi bác sĩ hay không?...Có cần đun nước pha trà không?...Có cần chuẩn bị thứ gì đó ăn nhẹ cho đỡ mệt?...Tất thảy những quan tâm hành chính ấy khiến ông não lòng. Ông lại nằm xuống, kéo chăn lên cằm, đăm đăm nhìn khoảng trần nhà mờ tối. Dưới chân tường, ngọn đèn ngủ bé xíu như con đom đóm và cũng có màu xanh của lửa đom đóm. Ngày ấu thơ, ông vẫn cùng bạn đi bắt đom đóm bỏ vào những chiếc vỏ trứng gà. Trong bóng đêm, những chiếc vỏ trứng sáng óng ánh và mùa hè đom đóm ấy là mùa hè thần thoại nhất trong đời ông...

"Giờ đây, liệu thằng bé có chơi đèn đom đóm hay không?...Nó cũng đang sống nơi thôn dã cùng đám bạn học và xung quanh chúng cũng là những khu vườn, những bờ cỏ, những nghĩa địa làng um tùm như quang cảnh thời xưa khi ta còn ở Nghệ An?..."

Ông tự hỏi, nhưng rồi lại tự riễu mình vì đứa con ông sẽ chẳng bao giờ biết quê quán ở đâu và lúc này chẳng đứa trẻ nào có thể chơi đèn đom đóm. Đất nước đang trong cuộc binh đao, thay vì ánh lửa lập loè của lân tinh là đạn các loại pháo cày đỏ trời đêm. Thứ lửa gieo rắc nỗi kinh hoàng cùng cái chết...

"Chiến tranh, chiến tranh, chiến tranh....

Một lịch sử đã dằng dặc những cuộc chiến liên miên không ngưng nghỉ, vậy mà lũ người đam mê vinh quang còn cộng thêm vào đó cuộc chiến này. Một cuộc chiến vô tiền khoáng hậu cả về phương diện năng lực bị huy động cũng như những tổn thất máu xương...Ôi cuộc chiến tranh ngu xuẩn, cuộc chiến tranh đã được thực thi như đòn trừng phạt đối với một dân tộc. Một dân tộc tự đưa thân mình ra làm tăm-pông giữa hai toa tầu lịch sử, tự sử dụng danh tính của mình như con tốt đen trong bàn tay của thế nhân, tự hoán cải giang sơn thân thiết thành chiếc cối xay thịt khổng lồ trong một cuộc huynh đệ tương tàn khủng khiếp gấp ngàn lần cuộc binh đao Trịnh Nguyễn !...

Ta biết làm gì giờ đây khi ván cờ đã lỡ, khi ta bắt buộc trở thành con rối gỗ trong tay lũ sát nhân?...Những người anh em thù nghịch của ta, chẳng lẽ chúng ngu dại đến mức không có một chút ngờ vực khi dấn thân vào tấn trò này hay chúng cố tình quay lưng lại với lương tâm vì cuộc ganh đua quyền lực hấp dẫn hơn thân phận của một dân tộc?... Ôi danh vọng, vinh quang....những thứ người ta chẳng thể ăn chẳng thể ngửi

chẳng thể làm tình nhưng lại có sức huỷ diệt kinh hoàng, không chỉ huỷ diệt một cá nhân, một tập đoàn mà cả một nòi giống..

Nhưng vì cớ chi ta mãi đắm đuối , mãi khổ đau vì dân tộc này?...

Cái dân tộc cần đến cuộc đời ta như cần một con vật làm lễ hiến thần linh. Cái dân tộc ngu ngơ cười những nụ cười thoả mãn, cất tiếng tung hô ta như tung hô một hoàng đế vĩ đại, thần phục ta như đám ba quân thần phục một nguyên soái lẫy lừng bất khả chiến bại mà không mảy may hiểu một phần nghìn nỗi đau đớn giằng xé con tim ta, mà không đủ nhân từ ban cho ta một chút cỏn con hạnh phúc?... ....Vì cớ gì ta mãi phải dày vò vì cái dân tộc vị kỉ và vô tình ấy cho dù nó chính là của ta?...

Ồ không, từ muôn đời người ta đã biết rằng đám đông chỉ là một luồng gió, một đợt sóng, một trận cuồng phong, một cơn lũ hay một cơn hoả hoạn....Đám đông vô danh vô tính và vô trách nhiệm trước tất thảy những gì họ đã làm. Ta không thể lên tiếng oán trách hồ đồ như vậy. Dù muốn hay không dân tộc này vẫn là dân tộc của ta.

Lý do cuộc sinh tồn của ta là vì nó. Nỗi thống khổ lớn nhất trong con tim ta cũng là vì nó: Một dân tộc bị đoạ đầy....

Vì chưng ta đã sinh ra chính ở nơi đây, mảnh đất bùn lầy đau khổ ...Vì chưng sợi dây đàn mong manh nhất trong tâm hồn xứ sở vang vọng nơi tâm hồn ta cũng như nỗi tủi nhục nghìn năm của nó tẩm liễm vào từng tế bào cơ thể ta, từ da thịt máu xương cho đến cách cảm thụ sinh tồn...Chính ở nơi đây ta đã bị kết án vĩnh viễn khổ đau. Chính ở nơi đây ta buộc phải trả món nợ non sông lưu tồn từ ngàn kiếp !..."

Vậy là mọi nẻo đường đều dẫn ông quay lại địa ngục của chính ông. Không có cách nào trốn thoát....

Chủ tịch bật lên một tiếng rên rồi vội vã nghiến răng lại vì sợ hai cậu lính bên ngoài nghe thấy. Trái tim ông dường như mắc chứng sung huyết, nở to ra, đập một cách nặng nề. Ông nghe rõ từng nhịp đập ấy, ông cảm thấy rõ rệt những cơn co thắt khó khăn của nó:

"Ước gì thay vì một trái tim, con người có thể sở hữu một cái bơm máu, một thứ dụng cụ đủ chức năng nuôi dưỡng sự tuần hoàn mà chẳng mảy may gây ra những đớn đau...Giá như ta có một trái tim khác, một bộ óc khác hẳn ta có thể sống an nhiên?....Giá như ...."

Ông đưa tay lên xoa ngực, sờ đốt xương sườn cuối và bỗng thương thân:

"Tại sao ta mãi tự đầy đoạ ta trong một nỗi khắc khoải triền miên, một nuối tiếc dằng dặc và một nỗi nhớ mong không bao giờ nguôi dịu?...

Tại sao ta không thể lãng quên vì cuộc sống cần đến sự lãng quên như kẻ mắc chứng nhiễu tâm cần thuốc ngủ?...Ta đã học cách lãng quên gần như suốt cuộc đời để rồi khi trở về già mọi bài học đều hoá thành đám tro như đám tro sau cuộc đốt mã?.....Cuộc chiến tranh ngu xuẩn này là đòn trừng phạt đối với dân tộc của ta còn sự vãn hồi trí nhớ là pháp đình tối cao dựng lên để triệu hồi ta về nghe phán quyết?...Phải chăng đây chính là một liên đới thảm khốc giữa thân phận riêng ta với kiếp nạn chung của giống nòi?...Hay là sự trùng lặp ngẫu nhiên bí ẩn sẽ còn lại như một câu đố mãi ngàn thu?..."

Ông nghe một tiếng cười khẽ khàng bên tai nên mở mắt ra.

Gã đàn ông có nước da màu nõn chuối đang đứng dựa lưng vào tường. Bảnh bao trong bộ com-plê màu trắng ngà, thứ màu ông thích nhất. Ông vẫn nhớ cái cảm giác súng sính hớn hở khi lần đầu có đủ tiền để cắt may bộ com-plê ấy tại Paris, cái thành phố đắt nhất thế giới, nơi thợ may kiếm tiền nhiều gấp năm đến mười lần đám thợ các thành phố khác....Bộ quần áo sang trọng đầu tiên trong tuổi trẻ của ông, giờ đây gã đang mặc. Cũng cách bẻ cổ áo sơ-mi như thế, cũng chiếc cà-vạt màu xanh dương thẫm điểm chấm trắng và kiểu thắt cà-vạt cũng là kiểu thắt của thời xưa...Nhưng đó chẳng phải một chàng trai trẻ mà là một kẻ trạc ngũ tuần, có ngoại hình giống ông như bản chính với bản sao...Một lần nữa, ông hiểu rằng gã chính là bản diện thứ hai của ông, là kẻ mà lẽ ra ông có thể trở thành......

Gã đứng tựa lưng vào tường, dáng thong thả và điệu đàng, hai tay đút trong túi quần, mắt nhìn thẳng vào mặt ông với cái nhìn chăm chú:

- Ngươi không khóc đấy chứ?...

Ông ngần ngừ một chút rồi đáp:

- Xin lỗi...Tôi không thích câu hỏi của ông.

- Nếu cần, cứ khóc một chút cho nhẹ lòng....Ta vốn rộng lượng với những kẻ yếu đuối.

- Tôi không quá yếu đuối như ông tưởng.

- Để rồi xem.

- Câu ấy để giành cho trai tráng. Tôi đã ngoại bẩy mươi, câu nói của ông với tôi là thừa thãi.

- Nếu ngày mai ngươi lên đường về với tổ tiên, ngày hôm nay câu nói ấy vẫn còn cần thiết.

Ông lặng im vì thấy gã có lý. Nhưng ông cũng không thể thú nhận thua cuộc. Cách tốt nhất là lặng im. Và ông đưa mắt nhìn lên khoảng trần nhà mờ tối. Gã mỉm cười nói tiếp:

- Vào tuổi này mà ngươi vẫn cố sức đi tìm lời giải cho những câu hỏi siêu hình....Thế cũng đáng khen.

- Người ta có thể bị quay đảo bởi những câu hỏi như thế cho đến tận phút xuống mồ. Vì vậy, cuộc tìm kiếm lời giải cũng là lẽ đương nhiên.

- Có cả ngàn câu hỏi mà nhân loại chẳng bao giờ tìm được câu trả lời. Vì bản chất cuộc sống là sự đánh đố và thách đố. Sự đánh đố và thách đố này bao trùm lên mối quan hệ giữa loài người với thiên nhiên, giữa các nhóm người khác nhau trên quả địa cầu, và giữa người với người trên tư cách cá thể...Hãy nhìn lại quãng đời đã qua, ngươi sẽ tìm thấy những lỗ hổng, những mắt xích yếu kém, những rạn nứt, những đổ vỡ....Tất thảy những thứ đó xảy ra khi ngươi mất khả năng kiểm soát những phẩm chất cốt lõi nhất của cuộc đời...

- Tôi sẽ cố tìm bằng chứng cho sự lý giải của ông.

- Không phải cố. Chỉ cần ngươi quay đầu lại và nhìn mọi sự một cách khách quan hơn. Các bằng chứng nằm đầy rẫy trên con đường phía sau lưng ngươi, như những cột mốc sắp hàng dọc quốc lộ.

- Tôi vẫn luôn cố gắng phân tích sự việc một cách khách quan. Đấy là đòi hỏi tối cần thiết của người cầm quyền.

- Cái đòi hỏi tối cần thiết ấy lại chính là phần thường xuyên thiếu hụt nơi kẻ cầm cân nẩy mực. Sự sụp đổ của mọi đế chế, sự tan rã của mọi vương triều đều xảy ra vì thiếu hụt cái nhìn khách quan. Khách quan đối với tha nhân chỉ là sườn đất thoai thoải miền thảo nguyên, nhưng khách quan với chính bản thân là con đường leo lên đỉnh Hymalaya. Ta về đây để chỉ cho ngươi rõ những vết nứt lớn nhất trong tâm hồn ngươi. Như thế, ta sẽ giúp ngươi tìm được tự do. Ta sẽ kéo ngươi ra khỏi cái địa ngục này....

Ông im lặng vì trong thâm tâm ông đang chờ sự giúp đỡ của gã, chờ một cách thực sự, và điều ấy giống như sự sỉ nhục. Sau một hồi im lặng, ông thu hết can đảm cất tiếng:

- Vâng. Tôi chờ nghe ông.

Gã mỉm cười, nụ cười của gã vừa có nét quyến rũ truỵ lạc của Yve Mongtan vừa có vẻ giản dị, hồn nhiên của Jean Gabin thời niên thiếu. Gã nghiêng đầu sang bên trái một chút, nhìn sâu vào mắt ông với cặp mắt trong suốt màu nâu:

- Ta bắt đầu bằng nỗi dày vò thường trực nhất của ngươi, cái chết của người đàn bà ngươi yêu dấu. Ngươi thuận tình chăng?...

- Tôi có nhiều nỗi dày vò. Trên vai tôi cũng chất chồng vô số những tiếc thương và ân hận...

- Ta hiểu. Nhưng nỗi tiếc thương cho một dân tộc chỉ có đấng toàn năng mới đủ quyền lực để hoá giải. Ta, cũng như ngươi chẳng phải là đấng toàn năng. Ta chỉ có thể giúp ngươi trong cuộc chìm tầu này, trong cái bi kịch xưa cũ giữa một người đàn ông với một người đàn bà đồng thời giữa một ông vua già với một ái phi trẻ tuổi. Ngươi nghĩ sao?

Ông im lặng không trả lời. Gã nhún vai một cách ngạo mạn và cất tiếng hỏi:

- Vào ngày Nàng Xuân bị giết hại, ngươi đã làm gì?...

Ông lại tiếp tục im lặng vì không biết trả lời ra sao...Ngày ấy, ông đã gọi điện cho tướng Long nhưng khi vị tướng này sang, hai người chỉ trao đổi những sự việc liên quan đến quan hệ quốc tế. Ông đã chờ đợi tướng Long lên tiếng, nhưng cuộc trò chuyện kéo dài từ tám giờ sáng cho đến mười hai giờ rưỡi trưa mà ông ta chẳng cất lời. Còn chính ông, ông không dám mở miệng. Ông hiểu rằng vào lúc ấy, chỉ tướng Long mới đủ khả năng giải quyết sự manh động và lạm quyền của bộ trưởng Quốc Tuỳ. Toàn bộ các tướng lĩnh và bộ quốc phòng còn đang nằm dưới tầm tay của ông ta. Nhưng tướng Long đã lờ đi vì chính ông ta cũng muốn chủ tịch đóng vai thánh sống. Chính ông ta cũng muốn chủ tịch chỉ là vị cha già của dân tộc mà không để lại mảy may dấu vết của cuộc sống gia đình. Trò chơi Thánh sống này đem lại lờ lãi cho toàn thể bộ máy quyền lực, không một ai từ chối miếng ăn ngon...

- Ngươi không làm gì cả và miệng ngươi câm như hến, đúng không?...

Gã hỏi nhưng không đợi câu trả lời. Gã biết thừa ông không đủ can đảm để cất tiếng. Đôi mắt đẹp của gã nheo lại trong một cái nhìn vừa khinh bỉ vừa nhuốm màu thương xót và nói tiếp:

- Nói đúng ra, ngươi mong chờ tướng Long, người đàn em thân thiết nhất ra tay. Còn chính ngươi, ngươi không dám chủ động lên tiếng, bởi trong thâm tâm, ngươi lo sợ bị lịch sử kết án: Vì tình riêng mà gây sự biến cho quốc gia....Ai cũng nhìn thấy cách duy nhất để hành động lúc ấy là sử dụng lực lượng quân đội vây bắt Quốc Tuỳ đồng thời truất quyền Sáu, tên phản bội đầu bảng...Nhưng như thế, ắt máu phải đổ. Và ngươi lo sợ cho cái uy danh muôn đời của ngươi trong cuốn sử đất nước. Vì ngươi là tác giả của khẩu hiệu thơ mộng này:

"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công ."

Ý tưởng của ngươi đẹp đẽ thật và hiệu lực thật....Nhưng chỉ trong một thời, và trong một cảnh. Thứ đạo đức cốt lõi của những ai đang sống nơi rừng rậm nơi suối reo vượn hót....Ngươi không hiểu rằng khẩu hiệu đó chỉ là chiến lược trong cuộc chiến tranh du kích. Nhưng một khi guồng máy quyền lực đã thiết lập, ý tưởng cao sang ấy chỉ còn là một con chim oanh đẹp đẽ nhưng không hót được cũng không bay được vì đó là xác điểu nhồi bông. Khẩu hiệu của ngươi là thứ xăng nhớt chỉ dùng chạy cỗ xe kháng chiến nhưng không dùng được cho bộ máy điều hành quyền lực, nhất là quyền lực đảng độc tài...Ngươi quá mê mẩn với cái thứ lời hay ý đẹp của bản thân mà không hiểu rằng ngôn từ cũng như mọi thứ trên đời có sinh thì có tử. Quyền lực là quyền lực, nó không song hành với mỹ học hay đạo đức. Tính chất đặc trưng của đời sống là đánh đố và thách đố chính ở đây. Cú đòn giáng xuống người vợ trẻ của ngươi chính là trận đánh thăm dò. Vì ngươi đã tự bó tay nên hồi sau những kẻ thù nghịch trèo lên đầu ngươi cũng là điều dễ hiểu.

- Nhưng tôi cũng không thể yêu cầu tướng Long hành sự...Bởi điều đó sẽ khiến bao nhiêu con người vô tội phải đổ máu....Đất nước vừa trải qua chín năm kháng chiến, dân chúng chưa được hưởng yên vui...

- Ồ, muốn tránh máu cũng vẫn đổ....Trên hành tinh này có lúc nào ngừng tiếng súng đâu?..Nếu như ngày ấy ngươi tự nguyện hy sinh để tránh vài vũng máu tươi thì giờ đây ngươi đã không ngăn được những dòng sông máu lênh láng chảy... Cuộc chiến tranh hiện thời sẽ là cuộc chiến tranh thảm khốc nhất trong lịch sử dân tộc, một cuộc chiến tranh quỷ khóc thần sầu, bởi số người chết sẽ lớn hơn tổng số những kẻ đã hy sinh trong các cuộc chống ngoại xâm, từ thời Minh Nguyên cho đến tận mùa thu năm Ất Dậu(I945)....Điều ta nhận định đúng hay sai?...

- Ông biết rằng tôi đã tìm mọi cách để ngăn cản nó...Nhưng....

- Nhưng lực bất tòng tâm và ngươi là kẻ ngã ngựa giữa trận tiền...Ta đặt giả thuyết rằng ngay từ ngày người vợ trẻ của ngươi bị sát hại, ngươi tổ chức cuộc phản công và thay vì để cho lũ đàn em thù nghịch giam lỏng ngươi trong cái nhà tù trá hình này, ngươi nhốt bọn chúng trong một nhà ngục thật sự....Biết đâu ngươi chẳng tránh được cuộc chiến thảm khốc này và tiết kiệm được biết bao xương máu của lương dân?....

Ông im lặng thở dài và gã nhún vai nói tiếp:

- Nhưng thôi, chúng ta sẽ không tính lại chữ Nếu...Chữ ấy luôn luôn là thứ kẹo mút của bọn trẻ lên ba. Ta trở lại với bi kịch gia đình của ngươi. Và lần này ta không sử dụng từ nếu mà quả quyết rằng tướng Long giữ im lặng vào lúc ấy, chính vì ông ta cũng muốn trục lợi trong trò chơi ngươi đóng vai Thánh sống. Dưới bóng của một ông thánh có biết bao nhiêu kẻ được hưởng phần xôi oản, kẻ hưởng phần to nhất chính là ông ta. Tên tuổi của ngươi gắn với tên tuổi ông ta trong trận Điện biên Phủ. Vì thế, chính viên tướng này cũng muốn vĩnh viễn nhốt ngươi trong một ngôi đền. Ồ, trò chơi làm Thánh chính là trò chơi độc ác nhất cõi đời, ấy là độc đạo chỉ có thể trèo lên mà không có lối tụt xuống. Kẻ đóng vai Thánh sống phải chết cứng và chết đứng trên bệ của y, chết trong giá lạnh và mưa gió, chết trong cô đơn tuyệt đối vĩnh hằng, chết muôn kiếp trong tư thế một bức tượng, vĩnh viễn chẳng còn được chôn cất như những người khác....Một cái chết vô cùng mệt mỏi....Chết mà không được nằm, đó là thứ mệt mỏi kéo dài muôn kiếp.... Một kiểu hình phạt độc đáo của Tạo hoá...Ta nói đúng hay chăng?...

Gã cất tiếng cười mai mỉa. Ông thấy mặt nóng bừng còn toàn thân lại lạnh buốt như băng. Dường như lưng ông và hai vai ông đã hoá đá dán chặt xuống giường. Ông không dám mở mắt nhìn kẻ đối thoại nên đành nhắm mắt lại và tiếp tục nghe tiếng gã tuôn ra như nghe những viên cuội dốc ra từ một chiếc hũ sành:

- Ngươi hoàn toàn tê liệt bởi chẳng có một ý tưởng nào rõ nét chỉ đạo hành động của ngươi vào lúc đó. Ngươi muốn đánh trả kẻ thù nghịch nhưng không dám thuyết phục đám tay chân. Ngươi đã quên nguyên tắc hành xử của các quân vương tự ngàn đời:

"Kẻ nào đụng đến tả hữu của ta chính là chặt chân chặt tay ta ;

Kẻ nào đụng đến máu mủ ruột rà của ta chính là chạm đến con ngươi mắt của ta vậy...."

Lẽ ra, ngươi có thể vạch rõ mối hiểm nguy cho chính tướng Long và phe nhóm của ông ta. Rằng nếu ông ta giữ im lặng trước sự lạm quyền của Sáu thì sau cuộc đánh thăm dò này chính ông ta sẽ là một đại thụ cần phải đốn ngã trước tiên. Rằng kẻ hôm nay ăn cắp một quả trứng ngày mai sẽ ăn cắp một con thỏ và ngày hôm sau nữa sẽ ăn cắp con bò. Rằng quyền lực chỉ đi theo con đường của nó mà không bao giờ ngoái lại phía sau để suy ngẫm hay thương tiếc. Nếu ngươi đủ khôn ngoan để phân tích một cách đầy đủ như vậy, ta cam đoan là người đàn em của ngươi sẽ ra tay ngay tắp lự, chẳng một phút chần chừ, chẳng mảy may nao núng. Xưa nay, con người vẫn hành động tức khắc khi chính bản mệnh họ bị đe doạ. Lòng vị kỉ vốn là bản năng xa xưa và mạnh mẽ nhất của chúng sinh. Nhưng thay vì hành động với tất cả khả năng sáng suốt của lý trí, ngươi lại im lặng chờ đợi sự thông cảm một cách ngầm ẩn của đám đàn em. Sự im lặng này không hẳn vì ngươi hoàn toàn ngu ngốc, nhưng vì ngươi dùng dắng trong tranh tối và tranh sáng, chính trạng thái mù mờ đó khiến ngươi trở nên tê liệt. Có hai khả thể vào tình cảnh này: Hoặc ngươi hổ thẹn không dám bảo vệ người đàn bà yêu dấu vì nàng quá trẻ quá đẹp, một miếng ăn quá ngon đối với cái miệng của vị vua già, một thứ phản cảm đối với quan niệm chung của thứ dân và vì thế tuy trong lòng sôi sục yêu đương nhưng ngươi ngại ngùng và không dám công khai bảo vệ tình yêu đó. Trong trường hợp này đích xác ngươi là kẻ mắc chứng khổ dâm tinh thần. Nếu không, chỉ còn một cách giải thích khác. Ấy là vì ngươi quá thích thú với vai trò Thánh sống, là cuộc chơi này thoả mãn cái phần kiêu hãnh nhất trong bản thể nên ngươi buộc phải chịu đựng sự thiến hoạn cuộc sống bình thường của một người đàn ông, và do đó ngươi đã cam tâm hy sinh nàng, người đàn bà mà ngươi yêu nhất. Trong trường hợp đó ngươi là......

Những viên sỏi tiếp tục lăn ra từ miệng chiếc hũ sành, nhưng tai ông đã ù đi nên ông chỉ còn cảm giác là những đợt mưa rào đâu đó gõ ầm ầm lên mái tôn, có lẽ mái tôn nhà ngục Hương cảng ....Những đợt mưa rào hung dữ. Các tấm tôn xám kêu rùng rùng dưới những cơn mưa ấy. Phía trên các mái tôn là một mảnh trời. Lúc xanh lơ, lúc tối sầm mây giông, lúc trong vắt trong veo, lúc mịt mù sương khói...Ôi ,chỉ có kiếp tù nhân mới hiểu được tận cùng sự đổi thay sắc thái của mầu trời. Đã bao nhiêu ngày, ông nhìn bầu trời Hương cảng để hồi nhớ mảnh trời xứ sở? Rồi đột nhiên ông thấy nàng xuất hiện trên mái tôn nhà ngục nhìn ông, cười nụ cười thơ trẻ. Hệt như cô gái mười chín tuổi ngồi trên cành cây ăn vả trong cánh rừng Việt bắc năm xưa. Hai hàm răng trắng bóng lên như ngọc trai, và cặp môi lấm lem ruột quả...

Ông cất tiếng gọi nàng nhưng miệng ông bị gắn chặt bởi một thứ nhựa dính như sơn ta và lưỡi ông dính bết vào hàm.

"Không lẽ ta đã chết và họ trám miệng ta bằng thứ nhựa này?..."

Ông nghĩ, nhưng rồi ông lại nghe tiếng quật bài tu-lơ-khơ bên ngoài vọng vào phòng và khi mở mắt ra ông vẫn nhìn rõ ngọn đèn ngủ xanh màu xanh của lửa đom đóm:

"Ồ không, ta đang ở đây....Ta đang ở trên đỉnh Lan Vu....Đối diện với khu nhà này là khu chùa phụ, nơi sư cụ có hai hàm răng đen nhánh sống cùng đệ tử ....Rõ ràng ta vừa sang chơi bên ấy, và họ thết ta nước vối hãm gừng với chè lam, một thứ chè lam mềm như chuối chín..."

Ông định thần, giương mắt nhìn quanh gian buồng lần nữa. Cảnh vật bình thường. Gã bảnh bao diện com-plê màu trắng ngà đã biến mất. Nơi gã vừa tựa lưng giờ chỉ còn lờ mờ chiếc khung gỗ trong đó lồng bức ảnh đen trắng mà ông rất thích: Hoa đào. Bức ảnh ấy chính nàng tặng ông khi họ vừa có đứa con gái đầu lòng. Không ngày nào ông không đứng trước tấm ảnh đó. Nó là tất cả những gì còn lại của nàng, gợi về nàng trên cõi đời rộng rênh hoang vắng này. Hoa đào. Sứ giả của mùa xuân. Hoa đào. Di vật bất tử của mối tình chết yểu....

Ông thấy vị mặn của muối.

Đó là nước mắt ông hay nước biển năm xưa lạc lối quay về?.

"A!....Tuổi trẻ của ta...Khúc ca xưa cũ...."

Ông vừa chợt nhớ ra câu hát ấy thì một câu hát khác đã trở lại, láy vọng và nhấn chìm ông trong nỗi tiếc thương:

"Dầu đã lìa xa, lòng ta không nguôi nhớ..."

Tiếng hát rền vang trong ông, xuyên xoáy từng tế bào, khiến cơ thể lẫn tâm hồn ông tan ra như đám cát. Ông thấy những con sóng quật lên ông, lên cái khối bùi nhùi mà trong đó thịt xương bấy nát hoà trộn cùng thứ khí đục như mây giông. Ông biết ông không còn là ông nữa, bởi ông nhìn thấy mình đang dập dềnh trên ngọn sóng, một mớ bọt biển tiếc thương quyện vào đám rong rêu vật vờ của oán hờn và tuyệt vọng ...

Tiếng đập cửa phòng ầm ầm vang lên rồi cánh cửa bật ra. Điện bên ngoài đã sáng choang. Ông nghe tiếng bác sĩ:

- Thưa chủ tịch, xin phép được thăm bệnh cho người.

- A...

Ông chưa định thần được, cánh cửa đã mở toang và bác sĩ xuất hiện. Anh ta nói luôn:

- Cảnh vệ nghe nghe tiếng chủ tịch kêu nên sang gọi tôi. Xin người cứ nằm yên trên giường....

Ông im lặng. Bác sĩ luồn ống nghe để kiểm tra tim phổi ông. Thứ dụng cụ bằng kim loại lạnh buốt chạm vào da thịt khiến ông rùng mình. Nhưng những ngón tay bác sĩ rất mềm và ấm nóng, những ngón tay đầy nhục cảm. Hơi thở của anh ta cũng ấm nóng lướt nhè nhẹ trên trán ông. Mọi động chạm của người đàn ông này gợi nên những ý nghĩ thầm kín:

"Sự nồng ấm, đó chính là phẩm chất tối thượng của đời sống. Sự nồng ấm, vừa là hình hài vừa là đường biên của ngọn lửa đam mê...Ngọn lửa đam mê lớn nhất của đời ta đã dùng để đốt lên đám cháy cách mạng. Nhưng cuộc cách mạng ấy chẳng đem lại hạnh phúc cho con người. Ngọn lửa đam mê nhỏ nhoi hơn đốt cháy con tim ta vì nàng. Rốt cuộc nàng đã bị huỷ diệt trong chính thứ lửa địa ngục ấy. Ôi tội nghiệp thay cho sự uổng phí sinh lực của kiếp người. Đời ta đã cháy lên như một ngọn lửa hoang, một sự bốc cháy nhầm lẫn, một sự tiêu xài năng lượng điên rồ. Ta thua kém bất cứ một kẻ bình thường nào khác, như tay bác sĩ này chẳng hạn. Anh ta có thể dùng năng lượng để sưởi ấm các con bệnh, để làm nóng lên tấm thân người đàn bà gần gũi, và để hát những khúc tình ca..."

- Thưa chủ tịch, không có vấn đề gì nghiêm trọng nhưng người suy nghĩ quá căng nên giấc ngủ không lành....Có lẽ người chấp thuận uống vài viên an thần hay chăng?

- Ồ không. Mất ngủ là bệnh của người già. Còn nói mê là bệnh của trẻ con. Tuy nhiên, khi về già người ta thường cũng hay ngủ mê vì đó là triệu chứng khởi đầu của sự lú lẫn. Thành thực mà nói, chú đã thấy tôi bắt đầu lú lẫn hay chưa?

Ông cất tiếng cười . Bác sĩ cũng cười theo:

- Ồ! Chuyện hài hước.

Ông nói tiếp:

- Tôi hy vọng rằng tôi không bị lú lẫn trước khi chui vào hòm. Nằm trong lòng ông sáu tấm tha hồ lú lẫn cũng không phương hại tới ai. Còn bây giờ, chú cứ quay về phòng ngủ tiếp. Không cần quá lo lắng cho tôi. Tôi chẳng còn trẻ để có quyền ăn no ngủ kĩ. Mắc đôi chứng của bệnh già cũng là lẽ thường thường tình.

- Nhưng mất ngủ, người sẽ rất mệt.

- Sáng mai, tôi sẽ ngủ bù. Bảo họ chớ đánh thức tôi dậy ăn bữa sáng.

-Vâng.

- Cứ an tâm về ngủ lại. Chú nữa, chú cũng có quyền ngủ trễ ngày mai bởi phải thức dậy vào nửa đêm. Lúc này mấy giờ rồi?...

- Dạ, ba giờ hai mươi nhăm phút.

- Tốt lắm. Còn rất nhiều thời gian để ngủ tiếp.

- Dạ. Chúc chủ tịch ngủ ngon.

Bác sĩ khép cánh cửa lại. Đèn phòng ngoài tắt. Ông nghe tiếng anh ta bảo hai cậu lính chuyển bàn ghế sang tít đầu hồi bên kia chùa chính mà đánh bài để ông được hoàn toàn yên tĩnh. Hai chú lính dạ ran rồi lục cục chuyển bàn ghế. Tiếng chân bác sĩ vang trong đêm nhẹ nhàng nhưng khoáng đạt. Hẳn đây là một người đàn ông vô cùng nồng ấm trong chuyện gối chăn. Ông chợt nhớ lại cảm giác sững sờ khi lần đầu nghe anh ta hát. Vì giọng hát ngọt ngào hay vì lời hát xuyên thấu con tim ông bằng lưỡi gươm tàn khốc:

"Người yêu dấu, biết bao giờ lại trông thấy nhau?"

Ông nhận ra rằng ông đã quay lại pháp đình, nơi gương mặt nàng đối diện với gương mặt ông và giữa họ là tấm lưới pha lê dệt bởi muôn nghìn dòng nước mắt. Ông lên tiếng gọi nàng nhưng nàng không đáp. Tại sao nàng giữ mãi sự lặng câm? Tại sao nàng không trách móc, không sỉ mắng ông, dù chỉ một lời? Ồ, nếu như vậy hẳn lòng ông vơi nhẹ. Sự lặng câm của nàng là vạc dầu địa ngục khiến tâm hồn ông bị nung nấu trường kì.

"Sự lặng im của nàng là cuộc tù chung thân đối với ta. Trước tâm hồn trong trắng của nàng, trước sự tin cậy thơ ngây của nàng, trước mối tình chân thành và nồng ấm của nàng, ta là kẻ tội đồ ngàn kiếp"

Ồ, không phải chỉ có riêng ông. Những kẻ đã hy sinh nàng một cách nhẫn tâm rồi cũng phải trả giá. Chỉ một năm sau ngày nàng chết, Ba Danh và Sáu đã cho xây nhà ngục đặc biệt ở đảo Tuần Châu với ý đồ giam tướng Long vĩnh viễn trong đó. Nhưng sau khi bàn đi tính lại, chúng e ngại dư luận quốc tế nên đã bắt ông ta sang làm việc tại uỷ ban sinh đẻ có kế hoạch, lãnh nhiệm vụ đi đặt vòng cho đám đàn bà. Toàn bộ cái trò hề nhơ nhuốc này phaỉ chăng là sự trả thù của tạo hoá? Bởi con tim nàng quá trong trắng, bởi nhan sắc của nàng là vưu vật của đất trời, sự thánh thiện của nàng cả thần lẫn quỷ đều phải chứng, thế nên những kẻ quay mặt đi trước cái chết của nàng đến lượt họ cũng phải chịu những phản trắc, những đầy đoạ, những sỉ nhục của đám đồng chí bất lương. Dù vì lý do nào chăng nữa, khi tội ác đã đặt được chân vào cửa đền thì nó sẽ tiếp tục đi thẳng vào hậu cung mà không gươm dáo nào cản nổi.

Sáng hôm nay, Vũ gọi điện cho ông, chỉ để nói một câu:

"Anh Cả ơi, đại cuộc đã hỏng rồi"

Ông sững sờ, định hỏi thêm nhưng ở đầu bên kia, Vũ đã đặt máy. Lễ cho ông biết Vũ phải nhập viện ba tuần nay vì bị ngất đột ngột mà không lập được hồ sơ bệnh lý chính xác. Nhờ cú điện thoại sáng nay, ông hiểu được căn nguyên sự suy sụp tâm thể mà các bác sĩ phải bó tay. Đồng bệnh tương liên, lẽ đời như vậy. Tất thảy sự ngờ vực của họ bấy nay đã kết thúc trong tiếng kêu của con chim trước khi cụp cánh để buông thân rơi xuống vực sâu:

- Than ôi, đại cuộc đã hỏng rồi !....

Tấm áo lót cuối cùng của sự hồ nghi, của sự tự biện minh, của những hy vọng vớt vát và nguỵ tạo đã rơi xuống. Sự thật phơi mình. Nàng tiên mỹ miều chỉ còn là con cóc cái ghê tởm. Mỹ nhân yêu kiều hoá thân thành xác cáo chín đuôi. Hơn một thập kỉ dùng dắng trong sự nhá nhem giữa ánh sáng phán đoán của lý trí với sự mù loà của lòng kiêu hãnh, giữa sức mạnh của lương tri với bản năng vị kỉ và niềm si mê tự ngưỡng mộ mình. Chính vào buổi sáng hôm nay, khi nghe giọng nói khàn đặc của Vũ, ông hiểu rằng đây chính là hồi kết thúc:

"Ta không còn lý do nào để dung thứ cái chính thể đồi bại và tàn độc này, cái chính thể mà ta đã tạo ra nhưng nó phản bội lại chính ta sau khi đã phản bội lại dân tộc. Ta không thể tiếp tục cộng sinh với nó. Một thứ ngạ quỷ lớn lên trong lòng xứ sở nhưng ngay sau khi lọt lòng lại cắn cổ và hút máu chính người mẹ đã mang nặng đẻ đau. Ôi, khốn khổ thay cuộc hoài thai đau đớn này. Khốn khổ thay cho dân tộc của ta và khốn khổ thay cho chính ta"

Bóng tối trước mặt ông bỗng trở nên đen sẫm màu mực, thứ mực Tàu mà những ông đồ già thường viết trên giấy đỏ. Óc não ông chợt sáng bừng lên một hình ảnh cũ, một mảnh đời của quá khứ xa xôi nhưng vẫn còn nguyên tươi thắm: Cứ mỗi độ xuân, các nhà nho ngồi mài mực để viết những câu thơ đối vần trong đó hàm chứa cả ước mơ và hy vọng, vừa là lời chúc tụng vừa là điềm báo triệu cho tương lai. Những nét chữ thiêng liêng ấy hiện lên trên nền giấy đỏ rực, khi ngoài kia mưa phùn nhẹ như lông tơ bay trên những vườn đào thắm đào phai ; và xa hơn nữa những đàn cò trắng dập dìu trên cánh đồng xanh thắm. Ồ, đẹp làm sao những cặp câu đối mừng xuân. Những nét chữ múa lượn như rồng uốn, như phượng bay, như mây cuốn. Màu đen, đen đến tận cùng đen. Màu đỏ, đỏ mút mùa đỏ. Cuộc đời bao giờ cũng là sự đan xen giữa những đối cực. Vậy tại sao ông không sử dụng nguyên tắc của trò chơi này? Ý nghĩ ấy vụt đến khiến ông sửng sốt:

"Tại sao ta không dùng cái chết của ta như ông đồ già dùng thứ mực đen, để tôn vinh lên màu đỏ rực rỡ kia, biểu tượng cho tương lai huy hoàng của dân tộc? Tại sao ta không nghĩ ra nước cờ này, đó chính là nước cờ tối hảo ta sẽ đi trên bàn cờ thế sự. Đấy chính là cách hiệu nghiệm nhất để bóp chết loài ngạ quỷ, để chuộc lại lỗi lầm của ta trước dân chúng....Đấy cũng chính là con đường ngắn nhất để ta tìm gặp lại người yêu."

Tức khắc, ông thấy lòng nhẹ nhõm. Giống như kẻ bấy lâu mò mẫm trong bóng tối bỗng nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm.

"Ô, tuyệt vời! Cái chết này đem đến cùng một lần sự giải thoát và cứu rỗi. Tại sao đến tận lúc này ta mới nghĩ ra? Ôi, bộ óc vô dụng của ta, ngươi thật nghìn lần đáng trách."

Ông lật chăn, ngồi bật dậy.

Đã từ lâu ông thuộc như lòng bàn tay lá số của ông, biết chắc chắn ngày trở về cát bụi sẽ là ngày Mùi tháng Hợi năm Tân Hợi. Nhưng ông vẫn bật đèn, mở tủ lấy lá số tử vi cũ nát mà ông giữ từ hơn sáu chục năm. Các nếp gấp đã sờn, màu giấy ngả sang vàng úa. Ông thận trọng mở lá số ra, thận trọng soi chiếu lại sự tụ hợp của những hung tinh vào thời hạn mà tử thần sẽ đến tận giường để cắt sinh mạng của ông bằng lưỡi hái. Không có gì sai lệch. Cuộc kiểm định hoàn toàn chính xác. Trí nhớ của ông vẫn đáng tin cậy như thuở tráng niên.

"Ồ, sống làm gì thêm hai năm trong cuộc sống tù hãm và tuyệt vọng này? Sống làm gì thêm để tiếp tục đóng vai trò một con rối gỗ, khích lệ những đứa trẻ vô tội lao vào một cuộc chiến sầu thảm và ngu ngốc, để rồi mai đây lịch sử sẽ lên án ta như lên án một gã vua già hèn nhát hoặc bất lương? Cuộc ra đi này sẽ là cách sám hối tốt nhất, nó sẽ trả lại cho ta sự thanh thản trước pháp đình tối hậu của tâm hồn"

Ông gập lá số lại, cất vào tủ rồi đến bàn giấy, lục tìm trong ngăn kéo bản di chúc đã phác thảo dở dang từ năm trước. Ông sẽ hoàn tất nó đêm nay bởi ông quyết định chết vào ngày mồng 2 tháng chín. Theo phép thuật cổ, kẻ sáng lập ra một vương quốc, một tôn giáo, một môn phái võ lâm mà chết đúng vào ngày khai sinh các tạo phẩm ấy thì đó sẽ là điềm tiên triệu xác thực, là bản phán quyết định mệnh cho sự kết thúc không thể tránh được của chính các tạo phẩm trên.

Sáng hôm sau, cậu lính béo lên đổi ca lúc bảy giờ ba mươi, như thường lệ. Ông bảo:

- Chúng ta đi lên núi rồi hãy quay lại uống trà.

- Thưa chủ tịch, nhưng....

- Tôi muốn leo núi một chút cho dẻo chân. Tôi chưa thấy đói.

- Thưa chủ tịch, con phải chờ lệnh bác sĩ...Con không dám....

- Yên tâm, tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn. Bác sĩ còn đang ngủ.

Nói đoạn, không chờ cậu ta nói thêm, ông xăm xăm bước. Anh chàng lính béo chẳng có cách nào hơn là hối hả chạy theo rồi túm lấy cánh tay ông.

- Thưa chủ tịch, để con dắt người. Giờ này đường rất trơn, nguy hiểm lắm.

- Ồ!..

Ông quay lại mỉm cười:

- Ông già dưới xóm Tiều phu ngã vào đúng ngày tạnh ráo, và mặt trời đã đi qua ngọ, đúng không? Lúc ấy chẳng còn một giọt sương nào trên cỏ?

- Dạ, đúng là như vậy nhưng....

- Đừng quá cẩn thận. Chú cứ đi sau lưng tôi là được rồi. Đường núi hẹp thế này hai người bấu díu vào nhau càng khó đi hơn.

Cậu lính đành lẽo đẽo theo ông. Bởi ông đi nhanh thăn thoắt nên anh chàng cũng chỉ còn đủ thời gian để bám sát gấu áo ông mà thôi. Càng đi cậu ta càng thở dữ vì tấm thân nặng nề, cũng vì chưa bao giờ ông đi với nhịp điệu thần tốc như vậy. Vạt áo bông của ông đập phần phật lên hai chân và đuôi chiếc khăn quàng len kẻ sọc bay ngoặt lại sau lưng giống như đuôi diều bị gió thổi. Ông đi thẳng một mạch lên đỉnh Lan Vu, nơi cao nhất, nơi chưa bao giờ ông đặt chân tới. Ở đấy, ông đứng trên một tảng đá lớn đưa mắt nhìn bao quát đến chân trời. Những đám mây bồng bềnh lượn quanh đỉnh núi, rồi sà xuống các tầng núi thấp hơn. Dưới những dãy núi trập chùng ấy là làng mạc. Xa hơn nữa, đồi nương rồi đồng ruộng trải mút tới chân trời.

A ! Non sông của ông ....

Giang sơn gấm vóc hay miền đất bùn lầy tăm tối? Nói cách nào cũng được. Hiểu theo chiều nào cũng đúng. Bởi chỉ có duy nhất một hiện thực thôi: Đó là mảnh đất của ông, thuộc về ông. Cũng như ông thuộc về nó, mãi mãi. Tất cả những gì ông có được, tất cả những gì ông đánh mất, tất cả những gì ông đã làm, tất cả những gì còn lưu tồn như món nợ....tất thảy khởi sự từ nó và kết thúc cũng bởi nó, mảnh đất này. Quê hương lầm than. Dân tộc nô lệ. Một lịch sử không có tiếng đàn sáo mà chỉ vang lên tiếng lách cách của gươm đao. Một hiện sinh chẳng có tiếng cười mà chỉ vút lên tiếng hô Sát Thát. Tiếng hô ấy vang lên như tiếng hò kéo thuyền dọc con sông dằng dặc mấy ngàn năm.

"A! Đây sẽ là cuộc chiến đấu cuối cùng của ta. Đây sẽ là cuộc tế lễ cuối cùng của ta cho đất nước !"

Ông bảo cậu lính béo:

- Tôi muốn đứng ở đây một chút. Chưa bao giờ tôi đặt chân lên đỉnh núi thiêng liêng này. Quả là điều đáng tiếc.

- Dạ, chúng con cũng chưa bao giờ trèo lên đây. Nghe nói các vua xưa cứ ba năm lại lên đây tế lễ một lần.

- Ai bảo cậu thế?

- Dạ, dân xóm Tiều phu kể lại.

- Đúng đấy. Đỉnh Lan Vu là nơi tụ khí thiêng sông núi. Điều này các cổ nhân đã viết rành rẽ trong sử sách. Chịu khó đọc sẽ hiểu.

- Dạ.

- Bây giờ, cậu lùi xuống dưới kia chờ tôi. Chỗ cụm thông mọc giữa hai vách đá. Lúc nào cần quay về, tôi sẽ gọi.

- Thưa chủ tịch, nhưng....

- Xuống dưới đó chờ tôi. Không cần băn khoăn nữa.

Vì giọng ông cương quyết thậm chí có đôi phần lạnh lẽo nên cậu lính béo đành lùi lũi tụt xuống bên dưới, đúng nơi ông chỉ định. Đó là khoảng đất hẹp giữa hai vách đá, nơi vọt lên một cụm thông già. Anh lính béo chần chừ một thoáng rồi sau rốt, đành ngồi bệt dưới gốc thông, ngước mắt theo rõi ông.

Còn lại một mình, chủ tịch quay lưng về phía biển đông và ngoảnh mặt lại phía tây. Đứng im như tượng giây lát, đoạn ông nhắm mắt lại, thu hết tâm trí để tiếng nói của con tim ông có thể vang dội, để những âm thanh thầm kín nhất nơi cõi lòng ông có thể lan truyền và vọng động tới các đấng thần linh:

"Hỡi các vị thần linh đất nước, hỡi những linh hồn cao thượng của các anh hùng hào kiệt và các bậc quân vương, những người từng khai phá và bảo vệ giang sơn này. Nếu thân xác các ngài đã tan rã nhưng linh anh của các ngài vẫn tồn tại và ngự trị vĩnh hằng trên tổ quốc, xin hãy trở về đây để trợ giúp tôi.

Hỡi Như Lai Phật tổ, tôi chưa từng đi theo đạo của ngài nhưng tôi may mắn biết được những đệ tử trung thành của Ngài ở nơi đây và tôi hiểu sức mạnh chinh phục của Ngài với trần thế. Nếu quả thật anh linh của ngài luôn luôn ngự trị cõi trời tây, xin ngài hãy hợp lực cùng với các vị thần xứ sở của tôi, để giúp tôi đạt được sở nguyện cuối cùng này:

Tôi, kẻ đã khai sinh ra nhà nước cộng sản Việt nam vào mùa thu năm Ất Dậu, tức ngày mồng hai tháng chín theo lịch Ki-tô, xin được rời bỏ cõi trần vào đúng ngày ấy tháng ấy năm nay, mùa thu Kỉ Dậu. Cái chết của tôi sẽ là điềm báo triệu và là bản phán quyết khai tử cho chính nó, cái thể chế tàn độc và phản bội này.

Cái chết của tôi sẽ là tặng phẩm cuối cùng dành cho dân tộc tôi.

Cái chết của tôi sẽ là chiến thắng cuối cùng có thể gặt hái, để bù trả lại những thất bại và lỗi lầm tôi đã phạm trong suốt cuộc đời mình.

Cái chết của tôi sẽ là lời sám hối thánh thiện nhất trước pháp đình tối thượng của thiên nhiên và của lương tâm.

Vậy, tôi tha thiết xin tất cả các ngài hãy giúp cho tôi đạt được điều ước nguyện!"

A...a....a....

A....a....a....

A.....a....a....a....a....

Ông nghe muôn ngàn âm thanh mơ hồ, vừa như tiếng dàn đồng ca từ biển Đông vẳng lại, chan hoà, nhào trộn cùng tiếng sóng. Lại như tiếng xì xào thầm thĩ của những cuộc chuyện trò từ ngàn năm xưa vừa được thu hồi. Ông nhìn thấy những bóng người trong suốt như nước khe, mong manh như bọt sóng, khoác những thứ y phục xưa cũ, từ các vua triều Lý cho đến vua tổ triều Trần, người khởi nghiệp phái thiền Trúc Lâm. Từ tướng Đinh bộ Lĩnh cho đến tướng Quang Trung. Cả vua Lê lẫn tướng Trần nguyên Hãn. Tướng Nguyễn Xảo trong dáng một con ma không tay và Nguyễn Trãi trong bóng một con ma không đầu....Cuộc hội ngộ những con người ưu việt nhất của xứ sở, trong đó có biết bao kẻ đã từng là bằng hữu rồi trở thành thù nghịch theo thời gian....

Phía sau đám người đó, nơi chân trời vàng rực phía tây là một người cao lớn có gương mặt trầm tĩnh, cặp môi đẹp như hai cánh hồng với nụ cười thanh thản vĩnh hằng. Ông biết, đó chính là Đức Thế Tôn...

Như thế, lời nguyện cầu của ông đã được chứng.

Ông đứng im như vậy hồi lâu, cảm nhận một hạnh phúc ông chưa bao giờ biết. Một thứ hạnh phúc hoàn toàn khác biệt với niềm vui chiến thắng hay vị ngon của điếu xì-gà. Một thứ hạnh phúc bất khả truyền đạt.

- Thưa chủ tịch, thưa.....

Ông mở mắt ra, thấy cậu lính béo đứng ngay dưới chân mình:

- Tôi có làm sao đâu?

- Dạ, con thấy người đứng im như tượng. Rồi con bỗng thấy mặt người đỏ rực lên như say rượu. Con không hiểu vì sao?

- Không có gì phải sợ. Người ta thường đỏ mặt lên trong trường hợp nào? Hoặc hổ thẹn, hoặc sung sướng, đúng thế chăng? Thế cậu cho tôi đang hổ thẹn hay đang sung sướng?

- Dạ....Con sợ...

- Không có vấn đề huyết áp ở đây. Tim tôi đang đập rất bình thường. Nào, giờ chúng ta sẽ quay xuống.

Ông đáp đoạn tụt xuống tảng đá rồi trở lại lối mòn dẫn xuống chùa Lan Vu. Cậu lính chạy hồng hộc phía sau giơ tay túm lưng áo bông của ông và nói:

- Thưa chủ tịch, giờ con không thể nghe lời người. Dường xuống dốc thường dễ ngã hơn lúc trèo lên dốc.

- Ờ...

Ông tủm tỉm cười, để mặc cho anh chàng túm lưng áo ông kiểu như trẻ con nắm đuôi áo nhau trong trò chơi rồng rắn. Hồi lâu, anh chàng nói:

- Giờ con sẽ pha trà, người uống xong tập thái cực quyền rồi hãy điểm tâm.

- Không, từ nay tôi không tập thái cực quyền nữa.

Cậu lính béo lặng im một hồi vì ngạc nhiên. Rồi sau đó, dường như không chịu nổi cơn tò mò, anh chàng hắng giọng hỏi:

- Nhưng.... Người vẫn dạy thể thao là kỉ luật?

Đó là thứ kỉ luật nghiêm nhặt nhất mà chúng ta cần phải thực hành khi muốn duy trì sức mạnh tâm thể. Tuy nhiên, mỗi thời điểm yêu cầu một thứ thể thao thích hợp. Theo tuổi tác, con người phải thay đổi cách thức ăn uống cũng như các hình thức thể thao.

Ông đáp khi trong lòng nở nụ cười thầm thĩ:

"Từ nay ta sẽ tập thứ thể thao tương xứng nhất để mùa thu này ra đi một cách nhẹ nhàng. Bởi nếu ta biết cách bảo dưỡng thân thể như người thợ biết bảo dưỡng cỗ máy, ắt ta phải biết cách tắt mạng sống của ta như ông thủ đền tắt một ngọn nến vào lúc bình minh."

Con đường vòng qua một khe sâu, nước róc rách vọng lên hoà cùng lời chim chóc. Bình minh núi non bao giờ cũng thần bí và tinh khôi. Mọi thứ đều vấn vương mây trắng, đều mát lạnh những giọt nước trong veo, đều ngân nga lời chim. Ông bước phăm phăm như một chàng trai và cảm thấy như lần đầu nhìn thấy mọi vật. Rồi khi con đường ló ra khỏi đám rừng, chùa Lan Vu hiện lên đột ngột như bức tranh.

- Ồ, nhanh thật !

Ông buông tiếng kêu.

- Vâng, đường xuống núi bao giờ cũng nhanh gấp bội.

Anh chàng béo đáp.

Họ qua cổng tam quan để vào sân chùa.

Đột nhiên, một màu trắng mênh mông đập vào mắt chủ tịch khiến ông bàng hoàng như bị loá. Chủ tịch vội dừng lại, định thần rồi hiểu rằng đó là vườn mai phản chiếu ánh hừng đông. Bất giác ông cất tiếng kêu:

- Ồ, hoa mai nở đầy vườn. Sao lúc đi tôi không nhìn thấy?

- Dạ, lúc đi trời còn lảng vảng sương mù. Vả chăng người bước vội vàng nên không để ý. Đây là đợt hoa cuối cùng nở rộ. Sau đó, chỉ còn các cành lẻ muộn thôi. Sư nữ bảo con như vậy.

- À....ra thế....

Ông dừng lại, giơ tay nhẹ nhàng chạm lên những chùm hoa.

Những cánh hoa ướt lạnh và mịn màng lướt trên da thịt ông, vuốt ve an ủi. Ánh rạng đông làm những giọt sương còn đọng trên đầu lá sáng loé như kim cương. Ông nhắm mắt lại để tận hưởng vẻ dịu dàng của những cánh hoa và để nghe tiếng thì thào gió sớm. Khi ông mở mắt ra, gương mặt nàng đã trồi lên phía bên kia vườn, đối diện với ông. Nàng tươi tắn trong tấm áo chàm, cái nhìn êm ả trong vắt, gương mặt hồn hậu tinh khôi. Ông biết rằng đó chính là nàng, là nàng của ngày hôm nay, là nàng đã được giải thoát khỏi oán hờn hình nhục, là nàng của tuổi hai mươi, của mối tình bất tử, đang đợi chờ ông ở bên kia bờ dòng sông U tịch. Đợi chờ...

Ông cất tiếng:

"Giờ đây, ta nói với em, người đàn bà dịu dàng và khiêm ái, người vợ nồng nàn và rất đỗi thơ ngây, con chim oanh bé nhỏ của riêng ta. Sơn nữ ơi, ta chuẩn bị lên đường đi gặp nàng đây."

(Hết) ƯỚC NGUYỆN CUỐI CÙNG

VĨ THANH

Chủ tịch từ trần đúng ngày Quốc Khánh, mồng hai tháng chín năm Kỉ Dậu. Lũ đàn em thù nghịch tuy chẳng thông kim bác cổ nhưng cũng hiểu được sự trùng lặp này mang tính nguyền rủa và sẽ dẫn đến đòn trừng phạt không tránh được của định mệnh đối với thể chế nên chúng lừa dối mọi người bằng cách tuyên bố rằng ông ra đi vào ngày mồng ba.

Từ lúc ông nhắm mắt, một tuần liền, mưa như thác đổ. Nước trắng xoá đất lẫn trời. Sông Hồng cuồn cuộn lũ dâng, chưa bao giờ có lũ lớn như vậy vào mùa thu, bởi khi sen tàn, cỏ ngả màu chanh là lúc các dòng sông phải thu mình và các con hồ phải lắng trong để nhìn thấu rong rêu nơi đáy nước. Vậy mà lúc đó, sông Hồng đỏ ngầu bọt, réo ào ào, hung dữ như đang mùa giông bão. Khắp Hà nội, nước mưa không tiêu kịp dềnh lên các vỉa hè, tràn vào thềm nhà, xoáy ồ ồ trên các vũng lội hình thành nơi ngã ba, ngã tư đường phố. Từ thủ đô cho đến các thành phố đồng bằng cũng như miền núi, dân chúng đứng túm tụm dưới chân các cây cột đèn, nghe loa phóng thanh tường thuật tang lễ. Thành phố cũng như thôn quê, người ta khóc như có một cuộc tàn sát tập thể vừa xảy ra trên xứ sở này.

Tang lễ cử hành tại quảng trường Ba Đình, dưới thác nước. Lính đứng theo đội hình trong đồng phục quân nhân ướt sũng. Dân chen chúc từ quảng trường sang các ngả phố, quần đen áo nâu gài băng tang, trùm vải ni-lông. Các quan chức rường cột quốc gia trên khán đài, có cận vệ giương ô đen che đầu. Diễn văn thống thiết như mọi sự thống thiết trên cõi đời. Lời lời châu ngọc tuôn ra để ca ngợi công đức của vị lãnh tụ quốc gia, người khai sinh ra nhà nước cách mạng, người dìu dắt biết bao đàn em, đào tạo lớp hậu sinh thành những kẻ kế nghiệp thuỷ chung và tận tuỵ!

Không hiểu vào thời khắc diễn ra cuộc tang lễ này, linh hồn run rẩy của chủ tịch đang ở nơi đâu ? Nếu khôn ngoan, nó phải trú đậu dưới bóng cây xà cừ trước cổng bộ quốc phòng, tuy chịu ướt lạnh vì những làn nước như roi quất, nhưng chắc chắn sẽ quan sát được đầy đủ mọi lớp lang của tấn tuồng. Toàn dân khóc. Đám dân đen tốt hỉn đã đành, nhưng ngay những kẻ mưu hại ông cũng khóc rống lên tựa như cha đẻ họ chết thật. Họ khóc thảm khóc thê, nước mắt chan hoà, giọng tắc nghẹn vì đớn đau, sụt sùi vì mũi rãi. Diễn văn của họ được tô điểm bằng những tiếng xì mũi rất to và thứ tiếng động thiếu mĩ cảm này được phóng đại rồi lan truyền trên hệ thống phóng thanh công cộng.

Điều dự đoán của chủ tịch là đúng: Họ khóc thật sự.

Nhưng sự cắt nghĩa của ông lại sai: Họ không khóc vì mường tượng một ngày nào đấy họ sẽ phải đối mặt với ông trước pháp đình của thiên nhiên, họ không khóc vì hổ thẹn hay bối rối trước cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra bên kia bờ con sông U tịch. Ồ không, hoàn toàn không phải những lý do thơ mộng như thế.

Họ khóc vì họ không thể nào không mưu hại ông, không thể nào không truy tìm và cầu mong cái chết của ông, vì đó là lối mòn của con đường quyền lực. Tuy nhiên, đây mới chính là lý do quan trọng nhất, lý do tối hậu khiến họ phải nức nở trên khán đài: Vào chính thời điểm diễn ra tang lễ, họ mới hiểu được một cách thật sự họ là ai. Sự tự hiểu vốn là thứ kiến thức khó khăn nhất có thể truy cập được trong cuộc sống của con người. Rất nhiều kẻ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay vẫn hoàn toàn sống trong bóng tối của chính họ hoặc trong đám sương mù do trí tưởng tượng của họ tạo nên. Người ta chỉ có thể khám phá ra chân giá trị của mình nhờ những hoàn cảnh đặc biệt, và trong sự cọ sát với ngoại giới; bởi dung mạo của một con người chỉ được nhận diện qua tấm gương của tha nhân. Cái chết của ông chính là cơ hội ấy. Từ nhiều năm nay, thâu tóm quyền lực quốc gia, nắm trong tay cả một hệ thống tay sai từ thượng cấp xuống hạ cấp, từ các vị trí rường cột triều đình xuống tận tên lính gác doanh trại hoặc bọn chỉ điểm thôn xã; lũ đàn em thù nghịch của ông tin chắc vào khả năng khống chế của chúng. Rằng chúng là hoàng đế trên ngôi còn ông là thái thượng hoàng què liệt trong hậu cung buộc phải làm tất thảy những gì chúng yêu cầu như một con rối gỗ. Rằng chúng là những anh hùng đương đại còn ông chỉ là tấm bảng thếp vàng ghi danh sách các liệt tướng đã tan rã dưới đất bùn. Rằng khải hoàn môn chúng đang xây sẽ vĩnh cửu ngự trị trên cõi đất này còn chiến công của ông chỉ là khúc nhạc dạo đầu giống như thứ tiền sảnh người ta phải đi qua trước khi bước vào chính điện. Ngày tang lễ, những ảo vọng đó bốc bay như khói. Chúng hiểu rằng quyền lực của ông chỉ có thể làm nảy sinh lòng đố kị nhưng bất khả chiếm đoạt.

Quyền lực của ông, ấy là thứ nam châm được tạo ra dưới bàn tay thần hoặc quỷ. Từ trường thật của một ông thánh ảo. Khả năng thao thác ngoại hạng của một quyến rũ ngoại hạng. Sức mạnh vô địch của tất thảy những niềm tin, những xúc cảm, những huyễn tưởng đã nhào trộn, đã kết tinh, lắng đọng với thời gian và vĩnh định trong tâm hồn. Tất thảy những bùa phép cùng một lần dung chứa mọi nghịch lý, cái thăng hoa và cái cặn bã của cùng một trò chơi...

Như thế, chính trong thời khắc định mệnh, chúng hiểu rằng chúng không là gì cả trước lão già kia. Cho dù chúng đã bỏ ra biết bao công sức và mánh khoé để tự tuyên truyền về mình, những ngôi sao " sáng hơn nghìn ngọn nến " vừa xuất hiện trên bầu trời xứ sở...

Sự lan truyền mối xúc động chung vào ngày tang lễ ông giống như sự lan truyền của bão, lụt hay hoả hoạn. Vì thế, chúng hiểu rằng ông vẫn sống dù trái tim ông không đập nữa, rằng chúng phải tiếp tục sử dụng cái bóng của ông để che chắn mái đầu mình, rằng cái khải hoàn môn mà chúng toan tính dựng lên sẽ không bao giờ có được nếu không nương nhờ tên tuổi người đàn anh. Bởi vì, sau rốt, dù đau đớn khi lòng tự ái bị tổn thương, dù căm uất sự bất khả của bản thân hay sự bất công của tạo hoá, chúng cũng hiểu rằng chúng chỉ là lũ chồn cáo nhảy nhót kiếm ăn sau đuôi một con sư tử. Chúng cần ông, dù ông đã chết rồi.

Con sư tử già đã chết. Nhưng sự hiện diện của nó lại là điều kiện tối cần để bảo đảm quyền lực cũng như vinh quang của lũ đàn em nên bằng mọi giá chúng phải kiến tạo một cái xác nhồi rơm. Vì vậy, gần như tức thời, lăng Ba đình được khởi công xây cất.

Như thế, chúng tiếp tục phản bội ông vì chủ tịch đã chính thức viết trong di chúc là sau khi chết thi thể ông phải được hoả thiêu, tro cốt phải được rải đều trên non sông, rồi sau đó tên ông được khắc lên một tảng đá nhỏ đặt trên một ngọn đồi khiêm nhường tỉnh Vĩnh Phú. Nhưng sự phản bội cũng như tội ác một khi đã khởi hành thường không còn trạm dừng chân.

Tuy nhiên, kể từ ngày mồng hai tháng chín năm Kỉ Dậu, trên đỉnh trời Hà nội, luôn luôn treo lơ lửng một lưỡi gươm. Một lưỡi gươm khổng lồ, trong suốt. Người ta có thể nhìn rõ lưỡi gươm ấy vào những ngày thu, trời vắng mây, đặc biệt những ngày trời biếc xanh, xanh tinh lọc sau mưa bão hoặc sau khi cầu vồng hiển hiện. Lưỡi gươm ấy nhằm thẳng xuống cột cờ thành Hà nội, chờ đợi khoảnh khắc định mệnh để rơi xuống, chặt đứt lá cờ đỏ sao vàng, kết thúc cái chế độ phản trắc và tàn bạo, tiêu diệt loài ngạ quỷ đã cắn cổ hút máu chính dân tộc nuôi dưỡng nó.

Như thế, lời cầu khấn của chủ tịch đã được chứng giám. Vong linh thiêng liêng bất tử của các hào kiệt dựng nước và giữ nước, của các đấng tiên vương; ngự trị từ bảy tầng mây xuống tận các vùng đất đai, rừng núi, sông hồ xứ sở; cũng như anh linh của các chư phật đi lại cõi trời tây đều hiểu và thuận cho ước nguyện tha thiết này.

Điều còn lại chỉ là sự chờ đợi khoảnh khắc tối hậu. Khi dân tộc Việt biết rõ sự thật và hiểu được ước nguyện cuối cùng của ông./.

Paris, 19 janvier 2007

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire