jeudi 15 janvier 2009

ĐỈNH CAO CHÓI LỌI (2) - Au Zénith- Dương Thu Hương

TRUYỆN XÓM TIỀU PHU

Đường vào Xóm Tiều Phu quanh co như ruột gà !

Xóm Tiều Phu, mọi người vẫn gọi là xóm Tiều Phu mà không biết rằng đó là một cái tên đã lỗi thời, hoặc nói cho đúng hơn, tên gọi đã sai lạc với nội dung. Bởi mang tên là Xóm nhưng thực chất Xóm Tiều Phu không còn là một xóm mà là một xã đất rộng, người đông. Có thời, những người lãnh đạo đã định đổi tên xã Xóm Tiều Phu thành xã Quyết thắng, nhưng ý đồ ấy không thành công vì dân sở tại đã quá quen tên cũ, và dân quanh vùng cũng vậy.

Tên Xóm Tiều Phu hình thành từ thuở sơ khai, không biết đã bao đời, ba gia đình mà gia trưởng là ba anh em ruột rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn vốn là tỉnh Bắc ninh cũ lên đây sinh sống bằng nghề đốn củi. Lịch sử cuộc di dân này vốn huyền bí, càng ngày càng trở nên huyền bí hơn qua nhiều thế hệ khi từ một xóm trại vẻn vẹn hơn hai mươi người, Xóm Tiều Phu trở thành một xã rộng lớn gồm ba thôn, trên hai ngàn dân, không chỉ sinh sống bằng nghề đốn củi, bán than mà còn trồng lúa nương, lúa nước, các loại cây công nghiệp cũng như nuôi ong, làm miến, sao chè... Lịch sử được truyền tụng trong những đêm trăng, khi tiếng chày giã bột làm bánh vang lên khắp các sân nhà, những người đàn bà ngồi quanh bếp lửa vắt bánh trong khi đám đàn ông ngồi hút thuốc lào, uống nước chè chuyện vãn.

Lịch sử ấy gắn bó một cách huyền nhiệm với tên vùng đất cũ: Bắc Ninh.

Bắc ninh vốn là kinh đô thuở xa xưa. Đặc điểm dân cư của mọi thứ kinh đô là họ có nhu cầu hưởng thụ cao hơn dân chúng nơi khác. Cỗ cổ truyền ở Bắc Ninh thường được định danh bằng chữ tầng: Tầng ; giống như người ta gọi một toà nhà hai tầng, ba tầng, năm tầng.... Cỗ Bắc Ninh chia thành nhiều thứ hạng:cỗ hai tầng, cỗ ba tầng, cỗ năm tầng, thường không mấy khi thấy cỗ bốn tầng. Tầng có nghĩa là giới hạn đồ ăn được bầy kín mặt chiếc mâm đồng. Cỗ hai tầng có nghĩa là đồ ăn phải xếp thành hai tầng mới hết. Cứ theo đúng nghĩa đó mà hình dung cỗ ba tầng, hoặc năm tầng. Chắc chắn không có thứ dạ dầy nào chứa nổi những mâm cỗ ba tầng, năm tầng nhưng cách trưng bày những mâm cỗ như vậy được xem xét trên hai khía cạnh: Sự tôn trọng khách mời, và sự khoe của, hiểu một cách thông tục hay tế nhị cũng thế thôi. Một đặc điểm thứ hai của dân kinh đô là họ thường hoạt khẩu. Họ thích nói, thích diễn giảng chuyện đời và khả năng diễn đạt của họ xuất sắc hơn dân nơi khác. Đôi khi, khả năng này phát triển một cách thái quá và dẫn họ đến thói quen thêu dệt mọi chuyện. Bất luận người dân nào cũng có thể là một nhà văn tài tử hoặc một thi sĩ lỡ tàu. Nhu cầu sáng tạo chỉ được phóng chiếu qua một khuôn cửa duy nhất: lịch sử các tiền nhân. Thế nên, người ta có thể tìm thấy rất nhiều huyền sử khác nhau về ba gia đình đã khởi sự lập nghiệp nơi Xóm Tiều Phu, biến vùng núi non hoang vắng này thành nơi rậm rịch bước chân người, eo óc tiếng gà và véo von tiếng hát. Cũng chính những cư dân Xóm Tiều Phu là những người đã xây dựng ngôi chùa Lan Vu cùng hai chùa khác ở tầng núi dưới, bởi vùng Kinh Bắc vốn nổi tiếng là nơi nhiều chùa chiền, đền miếu. Nhu cầu vãn cảnh chùa là một trong những niềm hoài nhớ đất cố đô xưa.

Xóm Tiều Phu gồm ba thôn:Thôn Thượng, thôn Trung, thôn Hạ. Thôn Thượng nằm ngay trên chân rặng núi, ấy là nơi ba gia đình đầu tiên khởi nghiệp, dựng làng. Nhiều thế hệ trôi qua, lứa trai trẻ dựng vợ gả chồng chiêu tập những nàng dâu và những chàng rể từ muôn phương tới, họ lập trại, dựng nhà lan xuống những miền đồi xung quanh, hình thành thôn Trung rồi tới thôn Hạ. Cư dân hai thôn ấy trồng cả lúa nương lẫn lúa nước, trồng sắn lẫn chè trên các ngọn đồi, cũng như trồng khoai môn và súp-lơ su hào nơi đất thấp hơn. Những gia đình sinh sống ở thôn Thượng là những gia đình được coi là rường cột của làng xã, được nghiễm nhiên tôn trọng theo bộ luật xa xưa của phong tục mà không ai biết một cách chính xác nó được hình thành từ lúc nào, và do ai khởi xướng... Như thế, ông Quảng, người tiều phu xấu số chính là một trong những nhân vật luôn luôn được ngồi chiếu trên, luôn luôn được liệt kê hàng đầu trong danh sách những người có uy lực nhất Xóm Tiều Phu, người mà tất thảy những ông chủ tịch xã cũng như bí thư đảng uỷ phải hỏi ý kiến, phải tìm sự đồng thuận khi muốn làm bất cứ điều gì. Mười lăm năm trước, vào thời xảy ra câu chuyện này, con trai trưởng của ông đang giữ chức chủ tịch xã. Ông, vừa là bậc lão trượng trong xã, vừa là cha đẻ của con người quyền uy.

Mùa thu năm ấy, vợ ông ngã bệnh. Lúc đó, bà đã xấp xỉ lục tuần, sinh đẻ cả thảy tám lần, sức lực nếu chưa cùng kiệt thì cũng đã hao tán như ngọn đèn dầu sắp cạn. Vào dịp Tết trung thu, bà bỗng nhiên thay tính đổi nết , trở nên phàm ăn một cách dị thường. Xưa nay, vốn là người khảnh ăn khảnh uống, bữa cơm bà và hai bát chiếu lệ, khi có cỗ bàn, bà xuống đũa cho vui lòng chồng con. Đột nhiên, vào đêm rằm tháng tám, khi đám trẻ trong làng phá cỗ, mọi người bỗng thấy bà sà xuống mâm bánh nướng bánh dẻo nhặt một đĩa đầy tú ụ rồi ngồi ra một góc ăn thẳng một hơi hết nhẵn không cần chiêu một ngụm nước chè. Ai cũng biết rằng những thứ bánh dành cho con trẻ vào ngày Trung Thu thường ngọt sắt họng, cho dù người hảo ngọt mấy cũng chỉ có thể ăn được hai tấm và kèm theo hai tấm bánh đó ít nhất cũng phải uống một ấm chè mạn cho xuôi. Thế nhưng bà đã ăn hết cả một đĩa đầy tú ụ, có nghĩa là sáu tấm bánh lớn, thứ bánh trước đây bà không thể ăn nổi một góc mà không lắc đầu ngao ngán. Cái sự kiện ấy lan truyền trong xã như một cơn động đất. Láng giềng dấm dúi bình phẩm sau lưng bà. Nhưng cũng thật lạ lùng khi bà không thèm để ý tới tất thảy những ánh mắt tò mò xung quanh, bà có vẻ như người đãng trí. Bà chỉ có một mối quan tâm thực sự, ấy là những món ăn mà bỗng dưng bà thèm muốn một cách điên rồ, và sự thèm ăn của bà dần dần trở nên mối bí ẩn kinh hoàng đối với tất thảy mọi người, trước hết là lũ con. Bà thèm ăn mật ong, ong non. Mỗi sáng, bà rót đầy bát chiết yêu mật ong, ngồi ăn lem lém với một chồng hàng chục bánh đa vừng hoặc nửa rổ khoai môn luộc. Bà thèm ăn thịt lợn, thịt bò, rồi gà vịt, tôm cá. Bữa trưa, bà có thể ăn cả một chiếc chân giò hay một con gà trống thiến luộc. Bữa tối, bà tiếp tục ăn tám chín bát cơm với cá kho mặn hoặc lạc rang mắm tép và một rổ rau muống hay rau cải xào. Một bữa, khi đàn gà hàng trăm con sắp tuyệt diệt, chỉ còn lại những con gà chíp và hai mái già đang đẻ, bà vào ổ lấy ra hơn hai tá trứng đúc thịt lợn với hai đĩa xôi, ăn ngấu nghiến như hùm như hổ. Sức ăn như thế là gấp ba một gã lực điền Nam hà chuyên nghề đào đất, gấp năm lần ông chồng và gấp hai mươi lần chính bà cách đó vài tháng. Gia đình vốn khá giả, ông Quảng lại chiều vợ nên toàn thể gia đình đều tìm mọi cách làm thoả mãn mọi yêu cầu bất thường đó. Nhưng những đứa con của bà sợ hãi. Và người làng thì thầm một cách vụng lén sau lưng họ:

- Không phải bà ấy đâu, ma đói nhập vào đấy. Cứ để ý mà xem, mắt bà ấy đờ đẫn như mắt kẻ mất hồn, mà khi bà ấy ăn, bà ấy không nhìn vào mặt ai hết. Các cụ dạy: Ăn trông nồi, ngồi trông hướng. Người khôn ăn uống phải liếc ngang liếc dọc trước khi xuống đũa. Chỉ có kẻ bị ma đói ốp mới cúi đầu ăn sùng sục như vịt dũi ốc, như lợn xốc cám không thèm nhìn xem người bên cạnh có gắp được miếng hay chưa ?

- Ôi dào, người bên cạnh là chồng với con, có khi bà ấy không thèm để ý.

- Thế đêm rằm tháng tám, nào phải chồng con mà bà ấy hốt cả đĩa bánh ra góc phản ăn một mình ? Chỉ có người tàng tàng mới dám làm như thế.

- Ờ, cũng kì dị thật... Nhưng tôi không tin có ma. Dù là ma cà rồng hay ma đói.

- Không có ma thì có quỷ !... Chỉ có bị quỷ đói ốp mới thành ra phàm ăn đến thế. Người bình thường ăn chừng đó chỉ có chướng bụng lên mà chết thôi.

- Đúng thật. Ăn như thế mà tiêu nổi cũng là sự kinh dị. Bữa trước bọn trẻ luộc trứng rồi bỏ đi ăn liên hoan chi đoàn thanh niên. Tôi tiếc của ăn cố đến quả thứ ba mà bụng ấm ách đến nửa đêm, ngủ không được phải ngồi dậy làm mấy chén rượu với một nắm mứt gừng.

- Bà ấy không ăn để sống mà ăn để chết. Đời nào cũng có những người như vậy.

- Tôi lại ngờ bà ấy sống rất dai. Nhưng ăn như thế núi của cũng tiêu tán. Không hiểu rồi ông Quảng sẽ xoay sở cách nào ?

- Miệng ăn núi lở ! Người thường cứ ăn không làm còn cào lở núi huống chi người bị ma đói nhập hồn.

- Đừng tin nhảm, chẳng có ma quỷ nào hết, nhưng đó là một thứ bệnh mà cho đến tận bây giờ các thầy thuốc vẫn bó tay.

Ông Quảng không nói năng gì. Ông lẳng lặng lên rừng tìm mật ong khi chum mật trong nhà đã cạn, những đõ ong nuôi chưa kịp giàn đủ mật để chắt. Ông cũng rút tiền tiết kiệm về để mua thịt lợn thịt bò cho vợ khi đàn gà trên trăm con đã hết sạch, cả ngan lẫn ngỗng non trăm con nữa cũng không kịp đẻ trứng gây lứa mới. Khắp vùng, bất cứ nhà ai ngả trâu què, nghé hư hay bò già bò ốm đếu cho người đến gọi ông, bởi chắc chắn ông sẽ là vị khách xộp nhất Xóm Củi. Không ai dám tiêu xài như ông. Ông bảo đám con:

- Mặc người làng nói gì thì nói, mẹ các con đã bóp mồm bóp miệng cả đời để nuôi nấng các con, giờ là lúc bà ấy cần bồi dưỡng.

- Mọi việc trong nhà do cha định đoạt.

Người con cả, tức chủ tịch xã đáp lại. Anh ta đã xấp xỉ bốn mươi, đã có vợ và ba con, ở nhà riêng nhưng không ngày nào không qua nhà bố mẹ đẻ. Dưới anh ta, hai người em trai nhập ngũ, chỉ còn lại đứa em trai út, chưa đầy mười sáu tuổi là chính thức chung sống với bố mẹ .Vợ chồng ông Quảng sinh nở cả thảy tám lần nhưng chỉ đậu lại bốn đứa con trai. Tất cả đều đặt tên theo vần Q của bố. Chủ tịch xã tên là Quý. Tiếp đó là hai cậu sinh đôi cùng nhập ngũ một ngày, họ có tên Quyết và Quyến. Còn cậu út tên Quỳnh, đẹp trai nhất trong bốn anh em và dường như cũng là đứa lẳng lơ nhất, mười bốn tuổi đầu đã đuổi gái mê mệt khiến nhiều lần bà mẹ lồng lên chạy tìm con hết thôn Thượng, thôn Trung, thôn Hạ cho tới những xã cách Xóm Tiều Phu nửa ngày đường. Trong bốn anh em, bà cưng chiều cậu út hơn cả. Từ đồ ăn thức uống cho đến quần áo, bút sách, Quỳnh được chăm chút đầy đủ đến mức đám chúng bạn phát ghen. Cậu ta giống mẹ hơn cả. Cách nói năng cũng thủ thỉ như con gái. Có thể vì vậy mà cậu út được bà mẹ cưng chiều. Người làng bảo bà không có tay nuôi con gái, đứa nào lọt lòng mẹ được vài tháng cũng chết, không trụ qua một tuổi.

Mùa đông năm ấy rét đau rét đớn, bếp nhà nào cũng đỏ lửa cả ngày lẫn đêm. Những người già không dám bước chân qua cửa bếp. Đêm họ ngủ quanh đống lửa như dân Mán, dân Sán dìu. Sương mù từ trên núi phả xuống giăng màn trắng quanh vườn, tụ thành khối lơ lửng trên những mái nhà và các ngọn cây. Nhiều ngày sương tụ đến tận non trưa, chưa kịp tan thì chiều đã tới kéo theo đợt sương mới. Rồi tiếp theo những ngày mù sương là những ngày mưa dãi dề cùng gió bấc. Các vườn cây vặn mình xao xác dưới những lằn roi quất của mưa đông. Gió hun hút trườn qua các khe vực rú rít âm thầm rồi ào xuống xóm thôn mang theo những thở than truyền kiếp. Rét đến độ nếu ai đứt tay chưa kịp dịt thuốc máu đã đông ngay , nhưng sau đó vết nứt không thể khép miệng vì da co lại. Vào thời gian ấy, dân xóm Tiều Phu tụ tập quanh những bếp lửa của các đại gia, những gia đình sung túc nhất đủ củi dự trữ cho vài mùa đông, đủ thóc nếp lẫn đường mật đãi khách mà không phải nhíu mày cau trán hoặc bấm bụng rên la vì tiếc của.

Những mùa đông trước, bếp lửa nhà ông Quảng bao giờ cũng đầy lèn khách khứa, người ta nói ông vừa rộng cửa vừa rộng lòng. Cửa rộng, nhà cao, thóc nếp thóc tẻ, chum đường chum mật mía, chum mật ong... chất ngồn ngộn năm gian nhà ngang bên hữu. Đỗ lạc, đỗ xanh, vừng đen, vừng trắng phải quây trong cót. Chủ nhân lại là người hào phóng, hiếu khách. Những ngày mưa dãi gió dề, trời xám mây giăng, cảnh ngoài trời càng buồn thì trong nhà ông càng vui như tết. Xóm giềng không thể lên nương, xuống ruộng hay trèo núi đốt than hái củi , đều tụ tập tại căn bếp và ba gian chính ngôi nhà trên. Ở đấy, lò sưởi tí tách, than hồng rực. Đàn ông sẵn thuốc lào, thuốc lá, nước chè, chuyện nổ như pháo. Dưới bếp, đàn bà giã bột làm bánh, hoặc thổi xôi nấu chè tuỳ theo hứng. Cánh cửa nhà dưới mở là thể nào cũng có đôi ba bà nạ dòng khệ nệ bưng ra thúng thóc hay liễn mật, liễn mỡ. Bánh trôi, bánh chay, bánh rán mặn nhân thịt, bánh rán ngọt nhân đỗ ngào đường, bọc mật.... Xôi lạc, xôi đỗ, xôi gà hấp, xôi gà nướng.... Đủ trò. Có thể gọi là sơn hào hải vị của vua chúa cũng chưa hẳn đã mang lại sự khoái khẩu và niềm vui như những ngày đông lạnh, khi dân làng tụ tập quanh bếp lửa nhà ông. Từ trên nhà xuống dưới bếp, tiếng cười ran như pháo nổ. Khách cười một, chủ cười hai. Ông Quảng vốn có tiếng cười hào sảng mà bất cứ ai cũng thầm ao ước. Những người biết xem tướng đều nói ông giàu sang nhờ ở tiếng cười. Dầu là dân thôn dã, ông biết đủ nghề, hiểu đủ cách kiếm tiền của thiên hạ. Vừa thoắt lên rừng kiếm củi đốt than, đã thấy ông tay thước tay dao dẫn đám thợ mộc, thợ nề xuống thành phố làm thuê cho công trường của tỉnh . Vừa ráo tay cày ruộng, đã thấy ông đánh xe ngựa chở chè mạn hay sắn khô xuống chợ huyện. Rồi từ chợ huyện, xe ngựa của ông lại chở đủ thứ hàng dưới xuôi lên bán cho các hợp tác xã của người Dao, người Sán Dìu, Sán Chỉ bên Lục Nam, Lục Ngạn láng giềng. Từ núi xuống đồng bằng, từ đồng bằng tạt xuống mạn biển nhặt cá khô, mực khô, và các loại mắm, ông lại rong ruổi dọc các huyện vùng cao, nơi chỉ có núi đồi và dã thảo. Giống như loài ngựa thảo nguyên, ông không dừng lại lâu ở bất cứ nơi nào. Bởi thế, tuy gốc gác tiều phu, nhưng từ thuở trai tráng ông đã ăn cơm tứ xứ và vẻ phong sương ngạo nghễ khiến con người ông toát lên một sức hấp dẫn mãnh liệt mà những người khác vừa thèm muốn vừa sợ hãi. Hơn thế nữa, cách cư xử của ông làm cho dân làng thán phục. Sự hào phóng chắc chắn là thứ tính chất hiếm hoi nơi những người bị trói chặt vào đất với rừng. Lòng tốt thường khó kiếm, hoặc nếu có cũng không thể đem lại hiệu quả khi cuộc sống vật chất quá bạc bẽo. Những mùa đông khắc nghiệt nhất, bao nhiêu mẹ goá con côi trong xã chỉ có thể trông chờ vào sự giúp đỡ của ông, bởi ngay quỹ tương trợ của hợp tác nhiều nhất cũng chỉ có thể cho đến năm mươi cân thóc. Ông Quảng không bao giờ cho thóc. Ông không muốn làm mếch lòng ai. Một khi hợp tác đã cho thóc, ông cho củi sưởi, cho gạo cho mắm cho đường cho mỡ và cho tiền.... Như thế, tiện cho cả người nhận lẫn người cho. Quá nhiều kẻ hàm ơn ông. Nhưng ông không trói buộc gì họ. Dường như không còn nhớ ông đã từng giúp họ. Như thế, có vẻ kì dị nhưng khiến cho cả ông lẫn những người mang ơn ông được nhẹ lòng. Và ngôi nhà sừng sững của ông có vẻ giống như một thứ đình làng thu nhỏ, nơi mọi người có thể tìm được hơi ấm của cộng đồng cùng những thời khắc sung sướng nhàn hạ ; một thứ hơi hướng của hội hè, rọi sáng cuộc sống vất vả và buồn tẻ dằng dặc nơi sơn khuê.

Mùa đông năm ấy, với những cơn mưa thấu xương thấu tuỷ, những cơn gió bấc dãi dề, người ta vẫn hướng nhìn về phía ngôi nhà ông theo thói quen, nhưng nó không còn đỏ lửa. Không ai bảo ai, nhưng tất thảy mọi người đều không dám đến nhà ông . Họ biết ông đã tay dao tay thước ra đi từ non một tháng nay, sau khi đã giao tiền nong cửa nhà cho cậu con trai út. Ông phải xuống thành phố làm việc vì của cải trong gia đình cạn kiệt. Không ai dám chia buồn hay an ủi ông. Không ai dám động chạm tới căn bệnh khó hiểu của bà. Căn bệnh ấy, đối với những kẻ chất phác quê mùa, quen sống cần kiệm là một tai hoạ. Nó cũng tương tự như căn bệnh thương hàn, lao phổi hay kiết lỵ thời xưa. Mất đi nơi chốn quen thuộc, dân làng đành chuyển đến một gia đình mới nổi lên giàu có ở thôn Trung: nhà cô Vui, bí thư chi đoàn.

***

Cô Vui, ba mươi hai tuổi, chưa một lần lấy chồng, hình như cũng chưa từng phải lòng ai, hoặc nói cho chính xác hơn là chưa ai từng phải lòng cô. Không phải vì cô xấu nết hay xấu người, nhưng vì cô cao đến một mét tám mươi bảy phân trong khi đám đàn ông trong làng, to con nhất như ông Quảng cũng chỉ già mét bẩy. Cao như thế, cô lại có đôi vai ngang như đòn gánh với những bắp thịt nảy nở quá mức rắn chắc như sành. Đôi vai cô có thể sánh với vai các võ sĩ quyền anh thượng thặng. Một tay cô có thể vật đổ gã trai bằng tuổi như chơi. Cô chính là hình ảnh của cha cô:ông đô Vàng, một thời nổi danh vô địch khắp ba tỉnh phía đông bắc châu thổ sông Hồng, kiếm không ít tiền trong những lần tranh giải vật toàn xứ bắc. Dân xã đồng lòng cho rằng cô giống ông đến mức nếu cô cạo đầu, cởi trần đóng khố thì cô có thể bước vào xới vật và làm run sợ mọi địch thủ như cha cô thời vang danh nức tiếng. Ông đô Vàng có một mụn ruồi lớn hơn hạt đỗ đen mọc ngay giữa cổ. Trên mụn ruồi ấy, lúc nào cũng đâm tua tủa những lông, mỗi sợi dài đến ba đốt ngón tay. Cô Vui cũng có một mụn ruồi y hệt như thế, nhưng nó mọc dưới cằm, và hàng ngày cô phải soi gương cắt túm lông đi. Nếu đôi khi cô mải việc, quên chăm chút nhan sắc là những sợi lông lập tức mọc dài ra, quăn queo một cách kì cục. Có lẽ vì ngần ấy dị biệt khiến cô không thể có được một tấm chồng như những người đàn bà khác. Cô làm nhụt chí mọi đấng nam nhi. Hình hài cũng như sức khoẻ của cô là đề tài mặn mòi nhất cuốn hút cánh đàn ông trong làng dù khi họ đang làm cỏ sắn dưới cái nắng chang chang tháng sáu hoặc khi họ ngồi hút thuốc lào vặt ngày mưa. Có một ngàn cách khơi mào những chuyện tiếu lâm nhưng riêng về cô, thường thường là một câu hỏi, một nỗi băn khoăn chung của cả đàn ông lẫn đàn bà Xóm Núi:

- Hôm qua tôi thấy con Vui chuyển đõ ong lên đồi. Chân nó đi có vẻ khang khác.

- Khang khác thế nào ?

- Hai chân nó chạng sang hai bên, giống như có gì vương vướng bên trong.

- Cái chó gì vướng được ở giữa hai bẹn nó, trừ khi nó buộc vào đấy một con cu-ly hay một con chồn ?

- Cái lão điên này, đúng là thánh sư nói láo... Tôi cho rằng hình như có người vừa khơi thông lạch đào nguyên.

- Đào nguyên mới chả thiên thai, toàn dân cu đen lại còn sính chữ !... Cứ nói huỵch toẹt ra rằng đã có thằng nào nhảy lên bụng nó cho rồi. Nhưng thằng nào dám liều mạng thế nhỉ ? Hay là chính ông đấy ? Tôi thấy mặt ông có vẻ gian gian ?

- Tôi ấy à ? Thế thì vinh dự quá ! Nhiều phen tôi cũng định thử, nhưng mới nhìn thấy nó con cu tôi đã xun lại như chim thằng bé lên ba. Thôi, tôi xin nhường cho ông.

- Đội ơn ông, gan tôi chưa đủ lớn ! Tôi sợ tôi tắt nghỉn nửa chừng. Mà đám con tôi còn trứng gà trứng vịt chẳng ai nuôi. Tôi xin nhường cho ông nào mạnh vía hơn.

- Bây giờ chúng ta đánh cuộc, ai dám sờ vào cái hang hùm của con Vui sẽ được chiêu đãi liền trong cả tháng. Các khổ chủ sẽ luân phiên gánh chịu phí tổn rượu ngon gà béo.

- Ôi chao, rượu với gà của các ông đáng giá gì .

- Thế thì một con bò tơ vậy.

- Bò cũng không đáng bằng sự hao tổn nửa mạng sống.

- Thế thì ba bò vậy.

- Ba bò chứ mười bò, lại các thêm ba lá vàng Kim Thành tôi cũng xin kiếu.

- Đừng đùa, ba lạng vàng là đủ cất lên năm gian nhà ngói.

- Thế thì ông thử đi.

- Không chơi trò thách suông, các ông cứ chồng đủ tiền mua ba cây vàng, tôi khắc liều mạng ngay.

- Cái mặt ông có liều mạng cũng chẳng ai tin. Con vợ ông cao chưa đầy một thước rưỡi, nặng có bốn mươi lăm cân mà nó còn bĩu môi bảo mọi người rằng ông là thằng vô tích sự, nhoai được ba nhát đã tụt xuống giường, chưa kịp đi đến cửa chợ đã rơi sạch tiền. Vậy mà ông còn nói phét.

- Đừng tin miệng lưỡi đàn bà. Ông có ở trên giường với tôi đâu mà biết ?

- A, thế thì hôm nào ta mở cuộc thi. Gọi ban quản trị hợp tác làm trọng tài, mượn cái đồng hồ quả quýt của ông Quảng đem ra bấm.Vợ chồng ông bên tả, vợ chồng tôi bên hữu, thằng nào thua cuộc phải mất con bò. Tôi cũng không ăn con bò ấy một mình mà sẽ đem thui khao cả xóm. Nào, dám chơi không ?

- Tiên nhân đồ khôn vặt. Tôi hai thứ tóc trên đầu, chẳng dại gì mất con bò với cái quân máu dê như ông. Thôi được, tôi chịu thua. Nhưng nếu ông cậy có con củ bằng sắt, sao ông không thử tài với con Vui một lần. Nhà nó phải có đến trăm cây vàng chứ chẳng phải ba cây. Ai cũng bảo rằng từ ngày ông đô Vàng chết, nó hái ra tiền. Chắc ông lão thương con nên đêm ngày phù trợ. Ông mà leo được lên giường với nó là đời ông lên hương tức khắc. Không phải chuột sa chĩnh gạo mà là chuột sa vào chum tiền.

- Ồ không, chum tiền chứ chum vàng chum ngọc tôi cũng chịu. Tôi chỉ dám trèo lên bụng con vợ tôi hay loại đàn bà ngang ngửa như nó thôi. Còn con Vui, nói trộm vong hồn ông đô Vàng, tôi mà thử sức với nó dám chắc tôi tắt thở ngay giữa cuộc. Hoạ may chỉ có chui đầu vào cái hang hùm ấy mà ngoi hay thượng cẳng chân vào trong đó mà đạp.

Những cuộc chuyện vãn như vậy kéo liên miên không bao giờ chán. Có lẽ công việc nặng nhọc và buồn tẻ nơi sơn thôn bắt con người phải tìm cách giải trí như vậy, mặc dù đôi khi họ sực nhớ ra rằng cách mua vui kiểu đó làm tổn hại danh dự người khác và có phần độc ác. Về phía cô Vui, chắc chắn cô không thèm để tâm tới những gì người ta bàn tán sau lưng. Cô sống hiên ngang như đấng nam nhi, làm tất thảy những việc mà

thông thường chỉ đàn ông mới đảm đương nổi. Trông cô chẳng có chút đau buồn hay hiu hắt như những người đàn bà khác thường mường tượng với nỗi hả hê. Bởi vì họ, có chồng và có con, hạnh phúc thì ít nhưng gánh nặng chồng chất trên vai thì nhiều. Đôi khi, thấy cô đi trên đường với dáng vẻ hùng dũng, với vẻ mặt tự tin mà ngay cả những người đàn ông thành công nhất vùng cũng thèm khát, họ cảm thấy một sự thương tổn không thể cắt nghĩa, một sức mạnh vô hình đè họ bẹp dúm như con chồn lạc bị xe ngựa chẹt ngang lưng. Nhất là từ ngày ông đô Vàng chết, cô Vui mó tay vào đâu, ở đấy nảy ra tiền. Ngay từ khi cha cô còn sống, ông đã xây nhà dựng cửa cho con gái, đoán biết rằng cô không thể có được một cuộc sống bình thường. Ông dạy cô nghề mộc, nghề nuôi ong, nghề sao chè, nghề làm miến... tất thảy những gì có thể làm nảy ra những tờ giấy tiêu được và khêu gợi thèm muốn của mọi người . Cô Vui vốn thông minh, lại có sức khoẻ phi thường, nghề nào cô cũng học được đến nơi đến chốn. Mẹ cô chết vì hậu sản, người nuôi cô thuở nhỏ chính là bà nội, rồi sau này khi bà nội chết, ông đô thôi giang hồ tứ xứ quay về Xóm Tiều Phu với đứa con gái duy nhất của mình. Người ta không hiểu vì sao ông chẳng tái hôn để có người tề gia, nội trợ, để có người đẻ ra cho ông những đứa con trai. Trước những băn khoăn của láng giếng, ông chỉ trả lời vắn tắt:

- Xưa nay có mấy khi mẹ ghẻ con chồng được cơm lành canh ngọt ?

Còn gặp khi đám anh em con chú con bác tò mò lục vấn chuyện riêng ông đáp thẳng thừng:

- Chuyện đực cái là lẽ thường tình, tôi muốn lúc nào mà chẳng được. Đàn bà lén lút tìm tôi trước khi tôi tìm họ. Nhưng đó là việc chốc nhát giải khuây cho thân xác. Còn tái giá lại là vấn đề hoàn toàn khác. Tôi không thể làm khổ con Vui. Vì đẻ nó mà vợ tôi phải chết. Tôi cũng không nỡ lòng để bà ấy ngậm ngùi nơi chín suối.

Một người chồng tình nghĩa như vậy quả là không dễ kiếm, một người cha thương con đến như thế cũng là chuyện hiếm trên đời. Khi ông đô Vàng chết, cô Vui làm ma cho bố ba ngày liền, dù cô là bí thư chi đoàn và chính quyền vốn ngăn cấm dân chúng tiêu xài lãng phí trong những dịp lễ lạt hay ma chay. Nhưng cuộc sống bao giờ cũng dành cho một số người quyền ngoại lệ. Bởi vì ngoài lề luật của thế tục, bao giờ cũng có những thứ lề luật mà con người tự hiểu với nhau, không cần đến giấy trắng mực đen. Như vậy là ba ngày liền, kèn trống vang vọng khắp xóm cùng thôn, tiếng hát đưa vong miên man như suối chảy. Ba ngày liền, hết bò lại gà lợn bị vật chết trong mảnh sân lát gạch thênh thang. Dân làng, từ già đến trẻ, từ chức sắc đến cùng đinh cứ việc thoả sức đánh chén. Thành ra cái chết của ông đô Vàng từa tựa như một dịp hội hè tuy người ta không tiện nói ra. Chẳng cứ dân Xóm Tiều Phu, dân quê ở bất cứ nơi nào cũng vậy, trong một cuộc sống chật vật và buồn tẻ, người ta khó từ chối những dịp được nâng chén rượu lên hạ chén rượu xuống, và được ăn thoả sức những thứ vốn ít ỏi trong những bữa cơm thường.

Cô Vui, từ sau đám ma bố, bỗng nhiên có một thứ quyền lực không định danh. Trước đây, là bí thư chi đoàn, cô chỉ là xếp sòng của đám thanh niên và con nít. Sau cái thời điểm mà người ta chứng kiến lòng hiếu thảo tận tuỵ của cô, cũng như sự hào phóng chưa từng thấy nơi một người đàn bà, cái nhìn của dân làng hướng về cô hoàn toàn thay đổi. Thế là, từ một cô gái lỡ thì, đề tài vô tận cho các cuộc kháo chuyện tục tĩu của cánh đàn ông, cô đã trở nên một chức sắc tự phong, điềm nhiên tham gia vào mọi sự việc trọng đại trong làng, với vai trò của một bậc nam nhi hơn là của một trang nữ tú. Người ta không mời cô khi có một cặp vợ chồng cãi cọ, vì đấy là việc của mấy bà cán bộ phụ nữ trong tổ hoà giải, nhưng họ mời cô khi mưa lũ làm sụt lở đường, khi xảy ra chuyện tranh chấp nương vườn với xã bên, khi cần phải xây trường học và nhà hộ sinh cho xã, khi cần phải khiếu kiện với cấp huyện về vấn đề phân phối máy xay máy sát và lương thực. Tóm lại, thuần những việc trọng đại thiết cốt tới đời sống và tương lai của dân chúng. Mùa đông năm ấy, lần đầu tiên, gian bếp nhà cô Vui thay thế gian bếp lạnh của vợ chồng ông Quảng.

Dân làng, nhất là những người đàn bà làm quen rất nhanh với những gian nhà kho của cô. Bởi cô không có đến mười gian nhà ngang rộng rãi như ông Quảng. Giàu có đã lâu nên cơ ngơi nhà ông gây dựng theo hình mẫu cổ, ba toà nhà châu tụ hình chữ môn quanh mảnh sân vuông lát đá, tòa nào cũng năm gian thênh thang, ngói dày, tường cao, gỗ cửa bóng lọng như gương. Năm nhà ngang bên trái ông dự định dành cho cậu út Quỳnh sau này lấy vợ và sinh con. Năm gian nhà ngang bên phải là nơi chứa lương thực, thực phẩm và mọi thứ đồ nghề. Nếu ai có hỏi phần của cậu Quyết cậu Quyến ở đâu thì ông bảo:

" Hai thằng này có số đi ở rể. Bảy lượt đi xem tướng các thầy đều bảo thế. "

Cô Vui không chồng không con nên ngôi nhà năm gian ông đô Vàng xây đã là quá rộng. Vì thế, cô chủ trương biến ba gian thành kho chứa đồ theo kiểu dân thành phố. Trong ba gian nhà kho của cô, mọi thứ xếp thành hàng thành lối , đều tăm tắp như các đội quân, dù là dụng cụ làm vườn, đồ nghề làm mộc, sao chè, đổ miến hay các đõ ong, các thùng lương thực... tất thảy đều đánh số, ngăn nắp và sạch sẽ một cách đáng thán phục. Nhưng vì thói quen sạch sẽ thái quá của người không chồng, cô Vui chỉ định cho các vị khách những món ăn mà theo cô, không gây ra quá nhiều thứ rườm rà. Thành thử, dân làng chỉ có thể được cô thết một vài món chủ yếu là xôi đậu, bánh chè lam, ngũ vị hoặc bánh rán nhân mặn. Đừng mơ tưởng tới xôi gà hấp, xôi gà nướng hoặc những món cầu kì khác. Cô vốn sợ lông gà và lòng gà vương vãi trên mảnh sân gạch bóng lộn của mình. Trừ những ngày lễ tết, ma chay, thường ít khi cô thịt gà mà chỉ ăn trứng. Còn thịt lợn, thịt bò cô mua nơi nhà khác. Trong sân nhà cô, gà không được thả rông mà quây trong khu rào thép mắt cáo. Bờ dậu quanh vườn cũng chắn thép mắt cáo sát đất để ngăn gà vịt, ngan ngỗng láng giềng đột nhập. Sống nơi thôn dã mà sạch sẽ đến như thế kể cũng là chuyện lạ kì. Nhưng tục ngữ đã dạy:

" Đáo giang tuỳ khúc, nhập gia tuỳ tục. "

Dân làng chấp thuận rất nhanh những điều luật trong ngôi nhà của cô chủ không chồng... Dù trong tâm can, họ có nuối tiếc gian bếp tưng bừng niềm nở nhà ông Quảng như một thiên đường đã mất thì con mắt thực tế buộc họ phải coi bếp lửa nhà cô Vui như một quán trọ đẹp mắt đối với kẻ lữ hành mỏi gối chân chồn. Mùi thơm của chè lam ngũ vị dẫu không hấp dẫn như món xôi gà nhưng cũng đủ làm rạo rực dạ dầy trong những ngày giá rét. Mà năm ấy rét thật hãi hùng. Chưa ai chứng kiến một mùa đông rét ghê rét gớm như vậy. Người ta nói không ngoa: Rét quắt cả tai. Rét buốt đến tận óc. Rét đến nỗi hơi thở đặc quánh trong hai lỗ mũi. Tháng mười, tháng một rồi cho đến tháng chạp, những cơn rét kéo không nguôi. Dường như không có lấy một ngày trời hửng nắng. Nhìn lên đỉnh Lan Vu chẳng thấy một đốm xanh của cây rừng hoặc mỏm đá. Không phải tuyết nhưng những cánh đồng mây chồng chất tầng tầng lớp lớp tạo thành một cõi trời mênh mông trắng buốt và mỗi khi gió nổi, những cánh đồng mây trắng đó xô đuổi nhau, xao động, bồng bềnh hắt lên những luồng sáng bạc lạnh lẽo. Hiếm hoi lắm, mặt trời mới trồi lên, nhợt nhạt héo hon như trái cam bị sâu đục, rồi một hai giờ sau, lại biến đi vô tăm tích. Năm ấy, nói một cách chính xác không còn là một mùa đông mà là hai mùa đông tiếp nối, không đứt quãng. Cái Tết Nguyên Đán qua đi vội vàng, cũng gần như không ai nhớ vì mưa rét. Chẳng ai dám trẩy hội. Không có trống chèo, cũng không có trống hội vật. Không có cảnh đáo cù, cờ bãi. Không có chọi gà chọi trâu. Cũng không cả trò thi thả chim, thả cá. Không ai cho trẻ con ra đường. Mọi hoạt động chỉ còn thu lại quanh bếp lửa. Quanh bếp lửa, người ta gói bánh chưng, bánh nếp, làm các loại chè lam ngũ vị. Quanh bếp, người ta nấu nướng, ăn uống rồi sau đó, những người già ngủ ngay quanh đống lửa còn trẻ con và người lớn phải đem chăn hơ cho nóng trước khi lên giường. Sau tết, trời lại đổ mưa. Lại tiếp tục rét. Như thế là mùa đông tiếp nối mùa đông !

...Vào một ngày cuối tháng hai, lẽ ra đã là thời khắc cây cối đâm chồi nảy lộc nhưng vì rét muộn nên các cành cây vẫn hoàn toàn trơ trụi, dân làng tụ tập trong gian bếp nhà cô Vui. Hôm ấy, chủ nhân đem ra sáu quả gấc nếp với hai cân đường đãi khách. Mấy ngày Tết, có một mình nên cô không muốn làm xôi gấc mà giàn gấc trên bể nước lại lần lượt chín đỏ như son. Hơn nữa, trong bếp cô còn hai liễn mỡ gà, thứ mỡ tuyệt hảo chỉ dành riêng để làm các loại xôi ngọt như xôi dừa, xôi vừng, xôi gấc. Ý định của cô được mọi người hoan hỉ đón nhận. Ngay tức khắc, các bà nhộn nhạo bắt tay vào hông đỗ, vớt gạo ngâm, rửa chõ đồ xôi dưới bếp trong khi ở gian nhà trên đám đàn ông ngồi hút thuốc, nhấm nhá bánh ngũ vị quanh lò than. Ngoài sân, trời vẫn không ngừng mưa. Thứ mưa nặng hạt như mưa giông lại kèm theo gió bấc. Thứ mưa đó buốt tới xương, thứ mưa đó ngăn người ra đi còn còn mạnh hơn cả dây quấn của những cánh tay ân ái. Vậy mà khi các chõ xôi gấc vừa lên hơi thơm nức, người ta thấy bà Quảng lù lù khoác áo mưa tiến vào giữa sân. Thoạt tiên, mọi người chưa kịp nhận ra mặt khách. Đường từ thôn Thượng xuống thôn Trung phải qua mấy lượt đồi. Trời lại mưa gió dầm dề, rét như cắn da cắn thịt. Không ai nghĩ một bà lão sáu mươi tuổi vượt qua quãng đường như thế để đến nơi đây. Nhưng khi bà Quảng gỡ nón, cởi chiếc áo mưa bằng ni-lông xanh nhạt, người ta chợt hiểu ra bà tìm đến căn bếp đỏ lửa này vì căn bếp nhà bà đã trở nên hoang lạnh. Một thằng bé mười sáu tuổi không thể nào nấu nướng săn sóc chu đáo một con bệnh đói như bà, nhất là khi nó vốn quen ăn sẵn.

Chủ nhân, chính là người đầu tiên nhận ra vị khách không mời. Cô Vui đang nói chuyện với đám đàn ông trên nhà, vội vàng vớ chiếc mũ của ông khách nào đó che đầu, rồi chạy xuống sân đón bà Quảng. Cô niềm nở vồn vã mời bà lên nhà trên, sự niềm nở có vẻ đặc biệt vì cô ý thức được rằng mới mùa đông năm trước, bà còn là chủ của bếp lửa lớn nhất xã, rằng thực khách nhà bà rải khắp ba thôn và đã hơn ba thập kỉ tên vợ chồng ông Quảng lừng danh khắp huyện vì sự giàu sang và lòng hiếu khách.

Bà Quảng chào tất thảy mọi người một cách chậm rãi, một cái chào chung vì bà không gọi tên bất cứ ai. Rồi bà ngồi xuống góc phản mà cô Vui vừa sửa soạn cho mình, đưa mắt nhìn ra ngoài sân, nơi những cơn mưa xiên xiên không ngừng táp.

Cô Vui, sau khi rót nước mời vị khách mới, chạy xuống bếp báo động. Người ta phải mở kho tức khắc, đong gạo nếp tức khắc để nấu thêm một nồi cơm nếp ăn với thịt lợn kho. Dân làng kháo nhau rằng càng ngày bà Quảng càng ăn mặn. Bữa cơm nào cũng phải có thịt có cá. Bà không thể vừa lòng với các loại xôi ngọt như mọi người. Cả chủ nhân lẫn đám đàn bà thôn Trung chuẩn bị mọi sự với một nỗi háo hức không che giấu. Đây là cơ hội hiếm hoi để họ có thể quan sát một căn bệnh thần bí mà cả vùng nghi nghi hoặc hoặc bởi từ sau ngày rằm tháng tám, bà Quảng không còn đặt chân ra ngõ. Cùng với căn bệnh ma đói, bà mất thói quen làm việc cũng như mất khả năng giao tiếp bình thường với xóm giềng. Bà không nhúc nhắc chân tay, không đụng chạm tới bất cứ một thứ gì, dẫu là săn sóc vườn cây, chăm nuôi gà lợn hay quét tước sân ngõ. Bà chỉ làm những món ăn cho riêng mình. Bà quên cả những quan tâm thông thường nhất đối với chồng con. Bà cũng chẳng còn nhớ rành mạch tên tuổi những người cùng chòm xóm. Như thế, căn bệnh quái quỷ này kèm theo cả chứng mất trí nhớ. Và như thế, từ lâu bà Quảng sống gần như cách biệt với mọi người. Hai cánh cổng gỗ to đùng luôn gài chặt. Người ta chỉ loáng thoáng nhìn thấy bà đi qua sân khi cậu út Quỳnh trở về nhà lo cơm nước cho mẹ hoặc di chuyển các đõ ong. Dân làng nhìn bà với con mắt tò mò thầm lén như người ta nhìn một con bệnh tâm thần đặc biệt. Vì vậy, chẳng có gì đáng kinh ngạc khi thấy đám đông xúm lại quanh bà hỏi han, chuyện trò, ngay từ lúc bà vừa ghé mông ngồi xuống tấm phản lim mênh mông nhà cô Vui. Đàn ông cũng như đàn bà, không che giấu nổi cơn tò mò ngứa ngáy. Nhưng dường như bà Quảng không nhớ rằng bà đang ngồi ở đâu, ai hỏi bà cũng chỉ ừ hữ cho qua rồi bà ngoảnh mặt nhìn ra sân, cười một nụ cười đờ dại. Cho đến khi người ta bê lên một mâm đầy, nào cơm nếp trắng với thịt kho, nào xôi gấc, nào xôi vừng với mật... bà điềm nhiên cầm đũa, nói:

- Mời các ông các bà.

Nói xong, không đợi ai trả lời, bà bắt đầu ăn mải mốt. Người ta tản ra các mâm khác, nhưng vừa ăn, vừa theo rõi bà. Chủ nhân chạy lên, chạy xuống, lúc ở trên nhà khi ngồi dưới bếp, rõ ra vẻ quán xuyến, nhưng con mắt không lúc nào ngừng quan sát người bệnh . Thành ra mọi cuộc chuyện trò, mọi cuộc đối thoại diễn ra giống như màn kịch chỉ để lừa một người là bà Quảng, trong khi chính bà không mảy may ý thức về điều ấy. Bà ăn hết hai đĩa cơm nếp đầy ụ với thịt kho mà những người xung quanh chẳng dám xen đũa. Rồi bà tiếp tục kéo đĩa xôi vừng về phía mình. Những người đàn ông khác cúi mặt làm ra vẻ không để ý, nhưng những ánh mắt hãi hùng của họ thầm lén giao nhau. Cứ như thế, bà lại vét gọn đĩa xôi vừng, đoạn đưa mắt nhìn sang đĩa xôi gấc đang còn quá nửa ở góc bên kia mâm. Cô Vui đứng sau lưng bà, hốt hoảng gọi:

- Nhà bếp cho xin đĩa xôi gấc mới.

- Có ngay đây.

Các bà dạ ran bên dưới, rồi một người nhanh chân chạy lên hai tay bê hai đĩa xôi đỏ như son:

- Mời bà !Hai đĩa chứ không phải một đĩa.

Không ai bảo ai nhưng mọi người đều hiểu rằng khi bà đã đụng đũa vào đĩa nào, đĩa ấy coi như chứa một thứ vi trùng còn nguy hiểm hơn vi trùng thương hàn hay kiết lị. Sẽ không một ai dám thò đũa vào nữa. Những người buộc phải ngồi chung mâm với bà vừa rón rén ăn vừa run. Một nỗi sợ không cắt nghĩa được hù doạ họ. Dù rằng, cùng với nỗi sợ ấy là một sự bù đắp thoả đáng: họ được hoàn toàn thoả mãn cơn tò mò.

Khi bốn người đàn ông cùng mâm chia nhau những miếng cuối cùng trên đĩa xôi của họ, cũng là lúc bà Quảng vét gọn cả hai đĩa xôi gấc phần bà. Như thế là một mình bà táng hết năm đĩa xôi với một bát tộ thịt kho. Bốn vị khách nam nhi vội vã rút khỏi chiến trường tìm nơi hút thuốc. Họ run sợ ra mặt. Họ sợ bị lây căn bệnh quái quỷ của bà. Chủ nhân cũng không chạy trốn được nỗi sợ hãi ấy, cô nói thầm vào tai đứa cháu:

- Bưng cái mâm này ra sau vườn rồi đem chôn, càng sâu càng tốt.

Trong khi đó, bà Quảng đã đứng lên, nói bâng quơ giữa nhà:

- Cảm ơn cô chủ nhá. Chào các ông các bà ở lại, tôi về.

Không chờ chủ nhân, bà tự khoác áo mưa, đội nón ra sân. Khi cô Vui từ trong bếp chạy ra định tiễn bà thì bà đã đi khuất ngõ. Chỉ còn thấy vạt áo mưa xanh nhạt lấp ló sau góc tường nhà bếp mà thôi.

***

Hai mươi bốn giờ sau, cả Xóm tiều phu nghe loan tin bà chết.

Bà chết ngay trên đường trở về, ở đoạn rừng trúc giữa thôn Trung và thôn Thượng. Bà ngồi ở vệ đường, lưng tựa vào tảng đá, nón úp xuống mặt. Rủi ro là đêm hôm ấy, cậu con út sang nhà bạn chơi, vui chuyện ngủ lại xã bên.Trời mưa rét lại xế chiều chẳng còn ai đi lại. Vì thế, phải đến non trưa hôm sau, mới có người qua đường, nhìn thấy một bà lão ngủ ngồi dưới mưa rét, sinh nghi bước tới lật nón lên xem. Bà đã cứng ngắc như đá. Bà lại là mẹ chủ tịch xã nên chẳng thiếu người ba chân bốn cẳng chạy tới uỷ ban đóng ở thôn Thượng thông báo. Quý tức tốc cho người xuống tỉnh gọi ông Quảng. Còn anh ta với các chức sắc xã lo việc tang điếu .

Thời nào cũng thế, là bậc mẫu nghi của kẻ có quyền có chức đương nhiên phải được hưởng phần lễ tiết sang trọng hơn hẳn thứ dân. Dẫu sao, con trai bà cũng là chủ tịch xã. Chưa có ai pha nước, têm trầu, mua thuốc lào thuốc lá, đội kèn trống đã tức khắc đến nhà và tiếng nhạc đưa vong cất lên vang dội khắp xóm cùng thôn. Nếu chẳng phải là mẹ ông chủ tịch xã, gia chủ phải lo đủ cỗ bàn, trầu thuốc lẫn tiền phong bao rồi mới dám lên tiếng mời đội kèn trống nhà đám. Bởi khắp huyện, chỉ có một đội nhạc tang. Mà lại toàn những người có nghề từ nhiều đời tụ tập lại. Từ tay kèn, tay nhị cho đến tay đánh trống hát đưa vong... thuần là những người theo đuổi nghề nghiệp từ thuở thò lò mũi xanh, mà cũng kiên trì giữ nghề sau bao nhiêu đợt càn đi quét lại của chính quyền cách mạng. Đã có những năm tháng dài họ phải cất giấu nhạc cụ, vờ vĩnh giải thể. Ai nấy cắm cúi sắm vai kẻ tuỳ thời, một lòng một dạ tuân theo các chỉ thị của huyện uỷ lẫn xã uỷ:

" Toàn đảng toàn dân đồng lòng thực hiện chủ trương xây dựng con người mới, con người xã hội chủ nghĩa . "

Theo tiêu chuẩn này, đám cưới chỉ được quyền uống nước chè xanh và ăn bánh kẹo. Để tiết kiệm, người ta thay pháo nổ bằng những tràng vỗ tay. Còn đám ma thì tuyệt đối cấm kèn trống cũng không cỗ bàn, không xe đòn, không cả đám rước cờ rước phướn. Lại càng không được mời sư sãi tụng kinh.Vì tất thảy những cổ tục đó là phản cách mạng, đồi truỵ hoá tư tưởng dân chúng và gây tổn hại tinh thần cho xã hội....

Nhưng rồi năm tháng qua. Dần dà nỗi tiếc thương những người nằm xuống khiến dân chúng không còn quá sợ hãi chính quyền. Ai cũng tự đặt câu hỏi:

- Ngộ dưới âm phủ không có chính quyền xã hội chủ nghĩa thì sao?... Không cúng bái đầy đủ tổ tiên chúng ta sẽ trở thành ma đói... Người nơi chín suối là ma đói thì kẻ sống nơi dương gian làm sao mở mặt mở mày ra được?...

- Không kèn không trống, không nghe câu hát đưa vong, người chết làm sao biết đường biết lối mà đi về cõi trời ?...Không vào được cõi trời, chỉ có cách sa xuống địa ngục làm mồi cho ngạ quỷ... Như thế hoá ra con cháu lại chính là những kẻ làm hại cha ông, xô đẩy người máu mủ ruột rà vào nơi hang hùm, miệng rắn.

- Chao ôi, cách mạng mới có mấy chục năm, còn tổ tiên chúng ta đã sống mấy ngàn năm có lẻ... Nào ai biết đâu là nẻo đường xuôi, đâu là con đường ngược... Vậy muốn cho chắc ăn, cứ làm theo cách của các cụ từ xưa....

Những cuộc chuyện trò thầm lén như thế thoạt tiên chỉ ủ ấp trong mỗi căn nhà, dấu giếm sau những bức tường và các khuôn cửa đóng im ỉm, nhưng dần dần chúng lan đến những buổi tụ tập quanh ấm chè, mâm rượu , và sau cùng, chúng theo đám dân cày cuốc lên nương, xuống vườn, thổi một ngọn lửa nóng bỏng trong lòng thôn ấp.

Thế rồi, việc gì đến, sẽ phải đến. Một đợt phản công dữ dội của dân làng bùng nổ khi công an xã đến trấn áp gia đình đầu tiên dám kêu gọi đội kèn đám quay lại nghề cũ. Gia chủ đã trả một món tiền phong bao đặc biệt, vượt qua mọi mơ ước của các nhạc công khiến họ đủ gan liều mạng. Tuy nhiên, ông ta cũng không dám đơn thương độc mã đương đầu với chính quyền. Ngay từ khi ông bố già còn đang nằm trên giường hấp hối, ông ta đã thầm lén đến từng nhà, kêu gọi mọi người cùng đứng lên hành động. Bởi nhà nào cũng có cha già mẹ yếu, mối lo tang sự là mối lo rường cột của tất thảy các gia đình nên mọi người đồng lòng hưởng ứng. Cuộc vận động diễn ra êm ả trong bóng tối. Chính quyền xã hoàn toàn không hay biết nên đã ập đến gia đình tang chủ một cách hống hách, kiêu căng. Không ngờ dân chúng chuẩn bị ứng phó. Vừa thấy chủ tịch và công an xã bước qua cổng nhà đám, người ta liền nổi trống ầm ầm. Các bô lão nghe hiệu lệnh kéo tới quây kín sân. Gần bốn trăm mái đầu hoa râm lẫn đầu bạc. Thêm nữa, đàn bà trẻ con đứng vòng trong vòng ngoài như đội quân ứng chiến. Tình thế lạ lùng khiến các chức sắc run chân. Họ đành xuống giọng:

- Nếu các ông các bà muốn quay lại hủ tục, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chúng tôi đến đây chỉ để nhắc nhở mọi người.

- Chúng tôi không coi việc tang ma là hủ tục. Chúng tôi coi đây là việc hiếu nghĩa. Các anh nói hủ tục nghĩa là từ ngàn xưa đến nay cha ông chúng ta toàn phường ngu dốt, chuyên làm những việc xằng bậy hay sao ?

- Chúng tôi không định nói thế.

- Hủ tục ? Vậy các anh muốn nói gì. Yêu cầu trả lời rành mạch trước toàn thể dân chúng. Ở đây, sớm hay muộn, muốn hay không, mọi gia đình đều phải lo việc hiếu việc hỷ. Không ai tránh được sự bắt buộc của kiếp làm người.

- Chỉ thị của cấp trên đã nói rõ: việc kèn trống theo lối cũ là hủ tục. Chúng tôi chỉ có phận sự thi hành. Chúng tôi không thể giải đáp.

- Thế ngày mai huyện uỷ ra lệnh cho các anh đào mồ đào mả tổ tiên lên các anh cũng cứ nhắm mắt làm, không cần hiểu đúng hay sai.

- Các ông đừng quá lời, đảng không thể ra lệnh làm những điều phi lý, phi nhân như vậy.

- Có đấy !.... các anh quên nhưng chúng tôi chưa quên: Năm con gà, cấp trên của các anh đã ra lệnh triệt hạ chùa Lan Vu và biến hai ngôi chùa dưới núi thành lớp bình dân học vụ. Các lão làng phải kéo lên tỉnh uỷ kêu cầu ông Lợi Đen, họ mới tha cho. May là ông Lợi Đen đã từng ăn nhờ ở đậu ; bốc cơm nguội, húp nước dưa nhà chúng tôi nhẵn miệng trong những năm đen tối.

Chính lúc ấy, trưởng công an xã xuống giọng trước:

- Thôi được, nếu các ông các bà thích tuân theo cổ tục thì cứ lẳng lặng mà làm. Chỉ có điều chúng tôi hoàn toàn đứng bên ngoài sự việc...

Nói xong, anh ta bấm chủ tịch xã chuồn. Hai người vừa ra khỏi ngõ, tiếng kèn trống lập tức nổi lên ầm ĩ, nửa như thị uy, nửa như khiêu khích. Công an xã ghé tai chủ tịch, nói thầm:

- Đừng có lơ mơ. Người xưa đã bảo rằng:

" Chúng khẩu đồng từ, ông sư cũng chết "...

Chủ tịch xã lòng dạ hoang mang không biết nói năng sao vì thấy gã đàn ông nổi tiếng sắt đá hung dữ bỗng nhiên tòng phục đám đông một cách dễ dàng như vậy... Ba tháng sau, ông bố già của xã trưởng công an chết, đội kèn trống được mời đến ngay tức khắc. Đích danh anh ta mang trầu thuốc lẫn tiền phong bao ra biếu các nhạc công....

Từ ngày ấy đến nay, bao nhiêu đời chủ tịch và xã trưởng công an thay đổi. Nhưng việc hiếu hỷ ở Xóm Tiều Phu không ai còn bàn. Người ta tuân theo phong tục của tổ tiên như một sự nghiễm nhiên. Chính quyền cấp tỉnh lẫn cấp huyện giả đò như không nghe, không thấy.

Nhờ vậy cái chết của bà Quảng được hưởng đủ mọi lễ nghi. Kèn trống, xe tang, cờ phướn, hương hoa linh đình. Nhà cửa sạch banh sau hai mùa bị tàn phá bởi căn bệnh ma đói nhưng ông Quảng đã vay ba con bò, năm tạ thịt lợn để làm ma cho vợ. Thiên hạ rùng mình:

- Nợ đến thế trả bao giờ cho xong ?

Người độc miệng hơn thì bảo:

- Bà này đúng là quỷ đói. Chết rồi vẫn còn đòi mâm cao, cỗ đầy. Chắc ông chồng phải lo cho đủ vì sợ bà ấy quay về ám...

Nhưng dẫu sao thì cả Xóm Núi cũng phải cúi đầu kính nể một ông chồng như thế.

Ông Quảng ở lại nhà đúng bẩy tuần lễ. Ông mời sư về đọc kinh cho vợ vào ngày cúng trả vong, tên gọi thông thường để chỉ ngày thứ bốn mươi chín sau cái chết. Lần này, thay vì tiếng nhạc là tiếng tụng kinh gõ mõ suốt đêm trường. Ông ngả ba mươi mâm cỗ chiêu đãi bà con, láng giềng rồi sớm hôm sau, đánh xe ngựa xuống tỉnh từ lúc trời còn tối đen như mực. Láng giềng nghe tiếng ngựa gõ móng trên sân và thấy ngọn đèn bão nhà ông treo lúc lắc nơi càng xe rọi sáng đám sương mù:

- Ông ấy đang làm cai cho công trường tỉnh sao lại còn đánh xe ngựa theo ?... Chẳng lẽ vừa xây nhà vừa buôn đường dài ?

- Có trời mà biết. Người lắm bạn nhiều bè như ông ấy làm gì chẳng nổi. Bây giờ nợ nần ngập đầu ngập cổ, ông ấy phải lo cách kiếm tiền chứ.

- Đúng là chữ tài đi với chữ tai... trời cho cách kiếm tiền, trời lại bắt cõng một con vợ nhập hồn quỷ đói.

- Nói phỉ thui chứ giá như quỷ đói mà rơi vào nhà chúng ta chắc chỉ có cách đem chôn sống.

- Cái ông này nói ghê cả tai. Nhưng của đáng tội, đúng là kinh hồn táng đởm . Từ thuở sơ sinh tới giờ chưa nhìn từng thấy cảnh như thế. Chỉ nghĩ đến thôi, đã đủ sởn da gà...

Láng giềng bàn tán, và sau mỗi lần bàn tán như vậy, họ cảm thấy hài lòng với mái nhà mình, với cái hạnh phúc nhỏ bé vừa tầm tay của mình, với những gì số phận đã an bài cho họ . Họ theo rõi ông từ xa, từ nơi Xóm Tiều Phu heo hút ấy, vừa tò mò vừa khắc khoải...

Mùa xuân lạnh lẽo năm ấy qua đi như cơn ác mộng. Tiếp đến mùa hè oi nồng đột ngột và chứa chất giông bão, thứ giông bão của mùa thu đến sớm. Những cơn mưa lũ tháng sáu tháng bẩy dồn lên ngay giữa tháng tư khiến các con suối cuốn ào ào làm nhiều đoạn đường sụt lở. Việc dọn lũ, đắp đường tiêu phí biết bao tiền của lẫn nhân công. Ve đẻ như sung vào cuối hè, tiếng ve kêu inh ỏi cả ngày lẫn đêm khiến những người già không ngủ được. Trẻ con bị hết dịch cúm lại đến sốt bạch hầu. Tiếng trẻ khóc như xé vải khiến không gian càng nhôi nhoai, ngột ngạt. Thời tiết thay đổi bất thường, cuộc sống cũng đảo lộn một cách bất thường. Những nỗi lo âu xưa cổ lại quay về , kêu ra rả như tiếng ve trong tâm hồn phập phồng hoang mang của người dân. Mặc cho chính quyền lẫn các đoàn thể hội họp, răn đe, dân làng quyết định mời các nhà sư trên chùa Lan Vu lẫn hai ngôi chùa dưới chân núi đọc kinh giải hạn trong ngày lễ ra hè. Thông thường, lễ ra hè chỉ làm trong một ngày, nhưng năm ấy, do quá nhiều sự bất thường trong trời đất cũng như trong cuộc sống, người ta làm lễ ba ngày liền, cờ phướn treo rợp sân chùa, dân làng từ già tới trẻ ngồi sùng kính đọc kinh, hy vọng cơn giận dữ của các bậc quỷ thần sẽ nguôi dịu....

***

Ông Quảng trở về làng vào ngày cuối cùng của dịp lễ. Chiếc xe ngựa của ông là chiếc xe duy nhất trong Xóm Tiều Phu có mui che, thế nên người ta nhận biết được ngay. Ông có vẻ gầy hơn xưa, đuôi mắt hằn thêm vài nếp nhăn nhưng tiếng cười ngạo nghễ không thay đổi. Một nửa mùa xuân với một mùa hè, ông đã trả đủ nợ, cả gốc lẫn lãi, lại biếu thêm mỗi chủ nợ mươi thước vải làm quà. Xóm giềng nhìn ông như nhìn người lạc từ cung trăng xuống. Người ta thì thầm kháo nhau về mọi cách kiếm tiền của ông. Nhưng những câu hỏi luôn luôn còn là những câu hỏi. Không ai kiểm soát hay dò tìm được đường đi lối lại của con người này. Cuộc sống của ông nằm ngoài trí tưởng tượng của thôn dân. Ông không chỉ dẫn người Xóm Tiều Phu mà còn tuyển dân của các huyện láng giềng xuống làm nề làm mộc nơi công trường thành phố. Một khi đã sắp xếp công việc cho các toán thợ, giao quyền cho đàn em thân tín, ông biến ngay cùng cỗ xe ngựa. Vài tuần sau, ông quay lại kiểm soát chất lượng thi công, bàn bạc, thoả thuận công xá với thượng cấp cũng như với hạ cấp, rồi sau bữa cơm rượu đãi thợ, nâng chén lên hạ chén xuống với mọi người, cười ha hả khi nghe đủ thứ chuyện tiếu lâm, ông lại mất tăm như người làm trò ảo thuật. Không ai có thể theo rõi ông, nhưng ông lại có biệt tài theo rõi tất thảy mọi người, ngay cả khi ông vắng mặt. Đừng hy vọng lừa đảo ông. Tất nhiên ông cũng chưa từng lừa đảo hay gian dối với ai nhưng đám dân đã theo ông xuống tỉnh kiếm cơm đều biết luật lệ của trò chơi và không kẻ nào dám mạo hiểm vượt mặt con người lõi đời ấy.

Sau khi trả hết nợ nần, ăn một bữa cơm với con cháu, chiếc xe ngựa của ông lại gõ móng lên đường vào một sáng tinh sương. Lần này, người ta nghe tiếng nhạc cất lên từ chiếc đài Sương Mao ông đeo bên mình. Cái thứ máy móc giống như cục gạch đen mà có thể phát ra đủ thứ bài hát, lẫn những giọng nói véo von đang còn là đồ vật huyền bí trước mắt dân quê. Ngay các quan chức huyện cũng chưa thể có được một vật lạ kì như thế. Láng giềng mở cửa, đứng nhìn theo chiếc xe ngựa, và lắng nghe tiếng nhạc xa dần.

- Lão này oách thật !...

Người ta bình phẩm.

- Không oách đã không phải lão Quảng. Có nhà ai dám làm đến ba mươi mâm cỗ vào bốn mươi chín ngày vợ chết đâu. Mà đấy còn là quỷ đói đã ăn tàn phá hại gia tài.

- Nếu bà ấy là người bình thường hiền thảo cho tới phút nhảy vào trong hòm chắc ông ta phải làm đến ba trăm mâm cỗ ?...

- Chả phải nói !...

- Ông ấy bao nhiêu tuổi mà trông còn chắc như cua gạch thế nhỉ ?

- Bà ấy sáu mươi, ông ấy sáu mươi mốt. Họ lấy nhau theo công thức:Gái hơn hai, trai hơn một.

- A ! Sáu mươi rồi thì không còn phải nghĩ đến chuyện tái hôn. Từ nay về sau, ông ấy chỉ còn việc nhặt tiền bỏ vào túi !

Đó là ý nghĩ phổ biến của dân Xóm Tiều Phu. Họ muốn rằng một người chồng tận tình tận nghĩa như ông ắt hẳn sẽ ở goá đến cuối đời để hoàn thiện hình ảnh của một lý tưởng đạo đức. Bởi con người luôn luôn có nhu cầu hướng về một lý tưởng đạo đức, miễn là cái lý tưởng ấy đừng hoá thân vào chính họ. Thế mà cuối mùa đông năm ấy, nói cho thật chính xác là ngày hai mươi lăm tháng chạp ông Quảng lại đùng đùng dẫn về một cô vợ trẻ. Một cô gái mẩy da mẩy thịt, cặp mắt lúng liếng sắc như dao cau, đôi mày dài qua thái dương quết đến tận chân tóc. Ngày đầu, cô ngồi trên càng xe đi qua đường làng, vừa trò chuyện với ông vừa đong đưa đôi chân và cười như nắc nẻ, nhiều người tưởng lầm là con gái nhà Quý:

- Ủa con cái Mơ sao bỗng nhiên nảy da nảy thịt nhanh thế nhỉ ?

- Chắc mắt ông có nhài, con Mơ nào mà to lớn đến thế được ? Nó chỉ nặng một xách tay chứ mấy.

- Chẳng lẽ lại là con Mận ? Con bé mới mười lăm. Nghe giọng cười lạ hoắc, rắn đanh. Tôi chắc không phải nó.

Họ không cần chờ đợi lâu. Ngay tối hôm ấy, sân nhà ông đã chộn rộn láng giềng. Đèn măng-xông treo giữa sân, soi sáng đến tận vườn trước, vườn sau. Người ta uống nước chè, ăn đủ loại bánh kẹo và nghe ông giới thiệu một cách vắn tắt:

- Đây là cô vợ mới của tôi. Cô ấy tên là Ngân.

Mọi người chưa kịp nói câu nào, cô gái đã tiến lên, nhoẻn miệng cười:

- Em chào các bác. Cảm ơn các bác tới mừng cho chúng em. Ngày mốt ngày hai chúng ta sẽ là những láng giềng.

Dân làng gần như á khẩu. Giấc mơ về người chồng lý tưởng sập đổ, tan như vôi vữa một ngôi nhà bị vùi trong cơn núi lở. Hơn thế nữa, cô dâu trẻ quá, lại đẹp quá, đến nỗi mọi người muốn tắc thở. Cô ấy mặc chiếc áo cánh lụa xanh, cặp vú nảy cồn cộn, ngon lành như hai bát xôi nén nặng tay. Cặp mông cong lượn một đường ngoạn mục dưới lớp sa-tanh đen nhánh. Bộ đùi cũng vậy, chúng hằn lên mỗi khi cô bước, đặc biệt gợi bao nhiêu điều háo hức cho cánh đàn ông khi gió thổi ngược chiều. Mắt cô cũng đen nhánh như sa-tanh, nhưng lại bắn ra những tia lửa lúng liếng khiến tim người loạn nhịp.

Chắc chắn ông Quảng đã hiểu thấu gan ruột của đám đàn ông, nên cao giọng nửa đùa nửa thật:

- Ở thành phố toàn những người đẹp như vợ tôi trở lên, ông nào muốn, tôi giới thiệu cho tức khắc; Cánh đàn ông như được rút lưỡi, nhao nhao:

- Muốn thì cũng muốn, nhưng túi không xu, gái nào thèm.

- Lòng vả cũng như lòng sung, tôi cũng đang mót lắm đây... Ông mà kéo được cho tôi một cô đẹp bằng nửa vợ ông, tôi xin làm quản gia, coi sóc nương vườn không công cho ông cho đến chết.

- Đừng tin mồm mép lão ấy, cái quân chuyên vay lường mướn quỵt. Xưa nay những người cho lão vay nợ chưa ai đòi được một hào. Có giúp thì giúp tôi đây.

- Các ông các bà thấy chưa ? Bạn nối khố đấy ! Động đến gái là chẳng còn tình nghĩa gì.

Câu chuyện râm ran trong khi cô Ngân đã rút xuống bếp để nấu nước chuyên chè và bày tiếp bánh kẹo ra đĩa đãi khách. Người ta ngồi đến quá nửa đêm. Đã hai năm căn nhà thênh thang của ông tối lửa tắt đèn, giờ mới lấy được không khí nồng ấm cũ. Tuy nhiên, dẫu chuyện trò như pháo nổ, láng giềng vẫn đảo mắt tìm những đứa con trai. Quý không thấy mặt. Cả cậu út Quỳnh cũng không. Giá như địa vị người khác thế nào cũng bị dăm ba câu hỏi đểu. Kiểu như:

- Cậu cả cậu út đi đâu chưa về ?

Hoặc là:

- Nhà có thêm nhân khẩu mới mà mọi người lại bỏ đi chơi đâu vậy ?

Hoặc là:

- Hôm nay là ngày nhận diện mẹ kế, đáng lẽ các cậu con trai phải bưng trà bóc thuốc mời dân làng mới phải đạo !...

Đại loại là như thế. Dân quê vốn không thiếu lối cạnh khoé ngoắt ngoéo như vậy. Nhưng có lẽ tại vía ông Quảng lớn, nói trắng ra rằng ông ấy sang cả, đường ăn lối ở đều trên can mọi người, dân nghèo trong thôn mang ơn ông ấy phải tính đến cả trăm chứ không phải đôi ba chục cho nên người ta đành nén những loại lời lẽ ngâm cả dấm lẫn ớt chỉ thiên trong họng.

Đêm ấy, trên đường trở về nhà, họ kháo nhau:

- Thằng cả không thèm đến, thằng út bỏ đi. Nhà này loạn đến nơi.

- Loạn làm sao được với ông Quảng. Cứ nhìn vẻ mặt ông ấy thì biết. Người như thế có cháy nhà cũng không chớp mắt.

- Nói phét !...Có là lòng gang dạ sắt con cái hỗn loạn cũng chẳng và nổi bát cơm.

- Để rồi xem ai có lý !... Chẳng cần phải chờ lâu, không mai thì mốt, con tốt phải xuất đầu. Ai cá cược với tôi ?

Không cần cá cược thì sáng hôm sau , mọi người đã thấy chủ tịch Quý đến thăm bố. Anh ta gõ cửa ầm ầm. Ông Quảng gắt giọng hỏi với ra:

- Ai làm rộn lên đấy ?

- Con đây.

- Về đi, tao còn đang ngủ.

- Bố mở cửa, con có chuyện cần nói.

- Chuyện gì cũng không nói lúc bảnh mắt này. Tao mới đi xa về, đang còn muốn nằm cho giãn lưng.

- Bố dậy đi. Con có nhời...

- Đây là nhà tao, tao muốn ngủ đến lúc nào tuỳ ý.

- Nhưng con còn phải lên xã làm việc.

- Lên xã là việc của mày, ngủ là việc của tao.

Chủ tịch Quý đứng hồi lâu trước khuôn cửa gỗ đóng im ỉm, mặt đỏ dừ. Nhưng rồi, anh ta cũng phải bỏ đi.

Láng giềng nín thở nghe cuộc đối thoại giữa hai cha con, không sót nửa câu, nửa chữ. Đàn ông cũng như đàn bà, xồn xồn nạ dòng cũng như năm mươi, sáu mươi, tóc trên đầu trộn cả tiêu lẫn muối, không ai không chú tâm theo rõi cái màn kịch hiếm hoi nơi thôn dã. Cái màn kịch, mà họ biết chắc chắn sẽ còn đi qua rất nhiều lớp lang.

Ngày hôm ấy, láng giềng quanh quẩn làm cỏ vườn, hoặc nhặt đậu, nhặt lạc, sàng ngô... bất cứ thứ công việc tủn mủn nào, cho phép họ theo rõi được mọi tiếng động xảy ra trong ngôi nhà ông Quảng. Họ nhìn thấy hai cánh cửa mở ra thật trễ tràng: Chín giờ rưỡi, mười giờ hay non trưa ?...Chắc cũng phải tầm ấy.:

- Lão Quảng bây giờ đã ra dân đô thị... Người thôn quê không ai dám ngủ muộn thế...

- Thôn quê hay đô thị cũng chỉ có một đầu hai tay, hai chân với cái chân thứ ba lủng lẳng dưới đám lông đái. Dù khoẻ như hùm cũng đã chính lục tuần. Cặp mông cô vợ trẻ thây lẩy như vậy, rập xong một quắn phải ngủ mười tiếng mới lại hơi.

- Này bà Tám, nghe thằng chồng dê xồm của bà tán chuyện hay chưa kìa ?...

- Chẳng cứ lão nhà tôi, ông nào nhìn thấy cô Ngân chả nhỏ nước dãi... Chỉ có điều các ông không thể bì với ông Quảng. Các ông chỉ là phường đũa mốc thôi... Đã đũa mốc đừng có chòi mâm son.

- Cái nhà bà này. Bà nói thế có nghĩa là bà tự nhận là mâm gỗ mốc à ?

- Tôi nhận quá đi chứ !Tôi không là thứ mâm gỗ mốc đời nào tôi phải chịu suốt đời hứng cái thứ đũa mốc kia.

- Con mụ trời đánh thánh vật ! Đêm nay thì mày biết tay ông !...

Đấy là câu chuyện trong bữa ăn đúng ngọ, khi những người láng giềng vừa xới cơm vừa đưa mắt liếc qua sân nhà bên kia xem ông chủ tịch Quý đã quay lại chưa... Nhưng ông ta chưa quay lại. Chỉ nghe tiếng gà kêu quang quác, rồi sau đấy là tiếng cười của cô Ngân. Giọng cười đến là lạ, vừa sành sỏi vừa thơ trẻ. Có cái gì đó tươi hơn hớn như hoa mùa xuân trong giọng cười của người đàn bà mới mười tám tuổi này. Rồi tiếng ông Quảng nói trong bếp. Chắc là cả hai đang làm cơm. Chỉ có hai người thôi vì cậu út Quỳnh đã bỏ về nhà bà ngoại dưới thôn Hạ. Chừng nửa tiếng sau thấy cô Ngân bưng mâm đi trước, ông Quảng cầm chai rượu thuốc theo sau , rõ ra là cảnh tuần trăng mật. Họ ăn cơm ở nhà trên chứ không ăn dưới bếp như mọi người. Phú quý sinh lễ nghĩa là thế. Láng giềng phải kiên nhẫn chờ cho tới sát bữa cơm chiều, mới thấy Quý quay về. Lúc ấy, ông Quảng và cô Ngân đang thu dọn năm gian nhà ngang được dùng chứa đồ gia dụng và lương thực. Hai người hì hục khuân ra sân hàng đống bao tải để lựa những chiếc còn có thể đựng thóc ngựa hay cỏ khô. Quý đi ngang sân, mặt hằm hằm:

- Con muốn nói chuyện với bố.

Ông Quảng nhìn con trai, gằn giọng:

- Muốn nói chuyện thì phải vào nhà. Muốn vào nhà phải chào chủ nhân rồi mới được bước qua bậc cửa. Anh là chủ tịch, đứng đầu một xã mà phép ăn phép ở tối thiểu cũng không thông suốt. Anh lãnh đạo ai ?

- Con chào bố rồi.

- Trong nhà này, ngoài tôi ra còn có vợ tôi. Trước đây mẹ anh là vợ tôi. Bây giờ bà ấy mất tôi lấy cô Ngân. Cô ấy là chủ nhà này.

- Con không có thứ mẹ ranh như vậy.

- A... Anh không muốn thứ mẹ ranh nhưng tôi lại muốn. Tôi lấy vợ cho tôi chứ tôi không lấy cho anh.

- Bố lấy ai cũng được nhưng phải nhìn ngược nhìn xuôi chứ. Đầu bố hai thứ tóc rồi.

- Tôi không cần anh dạy tôi. Tôi làm điều gì tôi thích .

- Nhưng con là con trưởng.

- Con trưởng hay con thứ trong gia đình này cũng vậy thôi. Tất cả đều tay tôi gây dựng. Tôi chưa nhờ vả được đứa nào. Kể từ ngày chúng tôi cưới vợ, dựng nhà cho anh đến lúc mẹ anh mắc bệnh, ăn lở núi lở đồi, là con trưởng anh đã đỡ đần tôi được một đùi bò hay nửa tạ lợn chưa ?

-....

- Không một đấu gạo, không một đồng xu, không một manh vải... Đến một viên kẹo mút cũng không ?... Tôi nói sự thật hay tôi đặt điều cho anh ?.... Tất cả đều tự tay tôi mà ra. Sự tồn tại của mái nhà này là do tôi đổ mồ hôi sôi nước mắt... Anh chưa báo hiếu nuôi mẹ anh được bữa nào, anh chưa ghé vai đỡ đần tôi được cân thóc nào thì chớ nên vênh mặt lên nhận con trưởng... Hãy giương mắt nhìn thiên hạ, có thứ con trưởng nào chỉ đào ăn như anh hay không ?

-.....

- Anh cấm khẩu, cứng họng không dám cãi. Vì xưa nay chỉ có chúng tôi bù trì, gieo vãi, chăm lo cho vợ chồng anh còn chưa từng xảy ra chuyện ngược lại. Vậy anh là thứ người chỉ há mồm ra chứ không bao giờ úp tay xuống. Đã thế thì hãy biết thân biết phận. Đừng đem cái thứ trưởng hão ra mà hù doạ tôi. Tốt nhất là bước đi cho khuất mắt !

Cuộc đối thoại xảy ra ngay giữa sân. Ông Quảng đã không hề hạ giọng mà lại còn nói toáng lên cho hả cơn giận dữ. Có người cho rằng ông cố tình nói oang oang để láng giềng nghe thủng ; để từ nay ai có mồm thì cắp có nắp thì đậy, đừng ngứa lưỡi dây vào việc của ông. Người ta cũng lại nghĩ rằng ông đánh gục đứa con trai như thế là để nó phải nhục nhã mà ghi khắc tận gan tận ruột là trong ngôi nhà này, chưa kẻ nào được phép vượt qua mặt ông. Và để nó quên đi giấc mơ thừa tự. Bởi đã từ lâu, ngôi nhà thênh thang này là giấc mơ ban đêm lẫn ban ngày của đứa con trai trưởng. Sau khi vợ xón ra hai ả Tố Nga, Quý đã quyết đẻ bằng được đứa con trai dù phải chịu kỉ luật đảng hai năm, và chức chủ tịch cũng phải treo hai năm mới bổ nhiệm. Nhà ngang, nhà dọc, nương vườn, những đàn ong, những của chìm của nổi mà người trong nhà cũng như ngoài ngõ luôn luôn dòm ngó là cạm bẫy mà chắc chắn ông Quảng đã biết từ lâu. Người ta cho rằng cũng đã từ lâu ông đắn đo mọi sự và một ngày nào đó, ông sẽ ngả xuống mặt bàn tất thảy những quân bài, những phép tính đã đủ thời gian cộng trừ nhân chia trong óc. Cuộc hôn nhân này là dịp để những con tính ấy được bộc lộ ra.

Thế nên, xóm giềng nín thở theo dõi cuộc đối thoại .

Ngay tối hôm đó, mọi người kéo tuốt tuột từ thôn Thượng xuống thôn Trung, tụ tập ở nhà cô Vui. Người ta kể lại không thiếu một dấu phẩy, dấu chấm cuộc đối thoại giữa hai cha con. Sau cuộc đối thoại ấy, Quý đứng chôn chân giữa sân hồi lâu . Ông Quảng và cô Ngân tiếp tục giũ những chồng bao tải làm bụi bay mù. Không ai nói thêm nửa lời. Trong sự im lặng đó, ông chủ tịch xã rút lui âm thầm:

- Một cuộc rút lui không kèn không trống.

Ai đó lên tiếng bình phẩm.

- Mất keo này, bày keo khác. Thằng Quý không chịu thua đâu.

Người khác phản hồi.

- Còn keo với cú gì nữa ? Tôi không bênh ông Quảng vì uống rượu ăn cơm nhà ông ấy, nhưng tôi biết mười điều ông ấy nói đúng cả mười. Kể từ ngày dựng vợ gả chồng cho cậu Quý, có bao giờ họ được gắp một miếng nem miếng chạo của nó đem cho ?

- Vì nó ỷ là ông ấy hái ra tiền. Con không ỷ vào bố thì ỷ vào ai ?

- Làm người chớ nên ỷ vào người khác, dù là con cái hay bố mẹ. Còn đã ỷ lại vào người khác tức là chấp nhận phận ăn bám, thì chớ lên mặt dạy dỗ ai, chớ nên đòi hỏi cái gì ngoài phận sự của mình.

- Nói nghe dễ, nhưng con gái nó mười chín, bây giờ ông Quảng lại rước một đứa mười tám về làm mẹ ghẻ thì nó chịu sao nổi ?

- Con cái Mơ đã mười chín rồi à ? Nghe mà giật cả mình !

- Ông ngủ mê hay sao ? Cậu Quý năm nay bốn mươi mốt rồi còn ít ỏi gì ? Ông bà Quảng lấy nhau khi bà ấy mười tám, năm sau đẻ liền con trai.

- Kể ra thì cũng bất tiện. Vợ thằng Quý hoá ra đẻ được cô Ngân.

- Cơm ai người nấy ăn, giường ai người nấy ngủ. Cuộc sống thời bây giờ đổi khác.

- Đổi đến mấy thì những người có liên quan máu mủ vẫn phải ngồi cùng một mâm, nằm dưới một mái ngói. Do đó, khi có sự bất tiện, không tránh được việc nảy sinh mâu thuẫn .

- Theo ông thế nào là bất tiện ?

- Bất tiện là sự nghịch mắt, trái với lẽ thường ở đời. Các ông thử hình dung vợ thằng Quý đứng cạnh cô Ngân. Một bên đúng mẹ nái xề, cần cổ trơ xương, vú chảy tới rốn. Bên kia ngồn ngộn như mâm cỗ đầy, ức phẳng như ức chim câu, bắp tay lẳn như bắp ngô, da trắng như trứng gà bóc. Thế mà bắt con mẹ nái xề kia phải gọi mẹ Ngân ơi... thì quá nực cười !...

- Tôi nghĩ rằng con mắt ông xục xạo dòm ngó một cách thái quá. Người ta gọi những kẻ như ông là loại dê xồm.

- Được là dê xồm càng tốt, tôi không từ chối lời ban khen của ông. Nhưng trở lại chuyện nhà ông Quảng, tôi cho rằng thằng cha Quý ghen với bố. Đời thuở nhà ai bố cắn miếng thịt ngọt sớt, con lại phải gặm xương ống, xương đùi ? Chính cái nghịch cảnh ấy thiêu đốt tâm can ông chủ tịch.

- Chuyện tầm phào ! Cái ngọn lửa thiêu đốt tâm can đứa con trai trưởng chính là gia tài mà nó đinh ninh là kẻ thừa tự. Các ông các bà có thấy từ sau khi đẻ thằng Phú ông chủ tịch nở mặt nở mày từng giờ từng khắc hay không. Cái cú liều chịu kỉ luật đảng hoá ra lại là canh bạc thắng lớn. Bố là Quý con đặt tên là Phú giấc mơ sang giàu không chệch đi đâu được. Bố là con trai trưởng, con là cháu nội đích tôn, bề nào khi ông Quảng khuất núi của nả cũng rơi vào túi nhà nó. Dù bây giờ theo luật trên giấy trắng mực đen thì con cái bình đẳng, bình quyền nhưng thói thường người ta vẫn cứ theo cái luật thời xưa. Nay có một bà mẹ ghẻ mười tám, giấc mơ tiêu thành khói . Chắc chắn là những đứa con khác sẽ ra đời. Cô Ngân có thể đẻ mười hai đứa con trai to như cối đá lỗ. Còn ông Quảng, tuy đã sáu mươi nhưng sức vóc ấy cũng phải cho ra lò dăm sáu đứa rồi mới chịu quy tiên... Hoá ra công liều đẻ đứa con trai của chủ tịch Quý bỗng thành công cốc.

- Ông nói ngang bỏ mẹ ! Cô Ngân có đẻ mười thằng con trai nữa thì anh Quý vẫn là con trưởng. Con trai anh ta vẫn cứ là cháu đích tôn.

- A, mọi người bé cái nhầm. Từ thời xửa thời xưa, luật phép cũng đã quay đảo. Đã có luật thì cũng có cái chống luật. Ngay đến ngai vua cũng còn có chuyện truất thái tử lập thế tử huống chi gia sản của thần dân ? Luật nào cũng nảy sinh trong bộ óc của con người. Óc liền với tim. Tim đập theo chiều nào, óc quay theo chiều ấy.

- Ờ... ờ... Có lý !

- Tôi chẳng tin ! Nói gì thì nói, ai cũng phải nhìn làng nhìn nước mà hành xử. Phép vua thua lệ làng. Từ ngàn năm xưa tổ tiên đã dạy .

- Đời nào cũng có kẻ vừa nhìn làng nhìn nước vừa ngoảnh mặt nhìn ra thiên hạ. Bình thường họ xử theo mọi người, nhưng khi cần thiết họ có thể đạp lên những lời đàm tiếu. Các ông các bà không nhận ra rằng ông Quảng chính là thứ người như vậy hay sao ?

- Ờ ờ, ông nói chí phải...

- Bây giờ, còn ai nghi ngờ nữa không ? Ai nghi ngờ giơ tay lên cho tiện đếm.

- Hôm nay đâu phải là ngày họp bầu tổ trưởng sản xuất hay kế toán hợp tác mà đòi giơ tay biểu quyết ?

- Tôi hỏi lại, có ai nghi ngờ những điều tôi phỏng đoán hay không ?

Không ai nghi ngờ, nhưng người ta vẫn ấm ức vì một lẽ gì đó chưa nói ra được. Một thứ cảm tưởng vô cùng khó diễn đạt. Có biết bao ý nghĩ, có biết bao cảm giác lẩn khuất một cách xảo quyệt khiến họ không thể hiểu tường tận , lại càng không đủ khả năng cắt nghĩa . Chỉ một cách là đợi chờ. Câu trả lời sẽ là của thời gian !

Sáng hôm sau, một thiếu niên từ thôn Hạ lên gặp ông Quảng, nói rằng cậu Quỳnh nhờ nó đến lấy quần áo, sách vở, rằng từ nay Quỳnh sẽ sống dưới thôn Hạ với bà ngoại và hai cậu ruột . Láng giềng nghe thấy cô Ngân gọi chồng ra tiếp khách. Câu trả lời của ông Quảng khá sỗ sàng:

- Tôi không biết cậu là con cái nhà ai, lâu nay tôi kiếm ăn dưới tỉnh nên không có dịp qua lại các thôn khác. Vì thế, tôi không thể giao tài sản cho người lạ mặt... Cậu về nói với thằng Quỳnh rằng quần áo, bút sách, đồ đạc riêng tư của nó đều mua bằng tiền trong túi tôi. Nếu nó muốn có những thứ đó thì phải đem đầu đến gặp tôi chứ không nhờ được ai khác.

Đương nhiên là anh chàng thiếu niên kia phải rút lui, không kèn và không trống, theo như lời mô tả của hàng xóm. Buổi chiều hôm ấy, hai người em trai bà Quảng đến gõ cửa nhà anh rể. Có lẽ trong thâm tâm họ run sợ trước ông nên phải hè nhau cùng đi một lượt, hy vọng cái câu ca:

" Hai thằng đánh một chẳng chột cũng què ! "

bao giờ cũng chính xác. Lúc đó là giờ bữa cơm chiều nên xóm giềng mượn cách xin muối, xin mỡ đến hóng chuyện nhà ông. Chủ nhân không những niềm nở cho đủ thứ mà còn pha trà mới và chèo kéo khách:

- Nhân tiện có hai cậu em vợ tôi tới chơi, các ông ở lại ăn cơm cho vui.

Lẽ ra chúng tôi đã làm vài chục mâm mời làng mời nước nhưng theo phong tục, phải đợi qua ngày giỗ đầu của mẹ thằng Quý. Cũng chỉ còn già một tháng thôi.

- Ôi, chúng tôi không dám phiền nhiễu thế .

- Chẳng phải các ông phiền nhiễu mà là chính tôi muốn có dịp cùng nâng chén lên hạ chén xuống với nhau. Tiếng là láng giềng liền vườn liền ngõ nhưng quanh năm tôi đi vắng, chỉ mùa đông mới có dịp tụ tập với người cùng xóm trong thôn.

- Vâng, thôi thì ông đã có nhời !...

Người ta chỉ đợi đến lúc ấy để kết thúc màn xã giao muôn thuở, muôn thuở sáo mép và giả dối nhưng không ai dám bỏ đi. Chủ nhân gọi với xuống bếp:

- Dưới nhà vặt thêm cặp gà nữa nhé.

- Dạ, em nghe thấy rồi !

Cô Ngân tức khắc trả lời. Dưới bếp, ngoài cô còn có bà Tư móm, đang tay nem tay chạo xào nấu đồ ăn. Bà là cháu gọi ông Quảng là cậu ruột, năm nay năm mươi chín nhưng vẫn còn trinh. Mẹ bà chết vì thương hàn khi bà tròn mười tuổi. Cha bà nuôi con được hai năm sau cũng chết do lũ cuốn. Mười hai tuổi bà đã nhất quyết ở riêng, không sợ cô đơn, không sợ ma quỷ, không lấy chồng. Làng nước khiếp hãi vì một đứa con gái mới ngần ấy tuổi đã nhất quyết giữ tiền đường để thờ cha cúng mẹ. Người ta bảo bà có số tu tại gia. Dòng họ nội nhà bà cũng đã từng có nhiều người đàn bà sống độc thân theo kiểu ấy, người thì làm chủ miếu, người mở phủ nhảy đồng, người là hộ lý trong những nhà thương làm phúc cho đến chết. Không nghe ai nói về chuyện tình duyên thời son trẻ của bà. Quả thực, bà không phải người có duyên có sắc. Thân hình nhỏ bé, rắn rỏi, gương mặt bình thường nhưng cằm lẹm và miệng hơi móm. Chính mẹ bà gọi yêu là con móm, sau đó thành tên. Bà Tư móm không đẹp nhưng cũng chẳng xấu gái. Môi bà đỏ và mắt sáng như nước, long lanh. Ối kẻ trong làng kém bà dăm bẩy điểm mà vẫn có chồng có con đàng hoàng. Còn bà phải chấp thuận cả một đời hiu quạnh. Phải chăng kiếp trước bà là kẻ đa đoan, lắm chồng nhiều vợ nên kiếp này bà phải trả quả ? Hay vong linh các tiền nhân bắt bà phải là gái già để giữ bàn thờ cho dòng tộc, tổ tiên? Không ai tìm được lời giải đáp cuối cùng nhưng trong thâm tâm, họ nể trọng bà. Về phần ông Quảng, ông thương bà một cách đặc biệt. Tuy không nói ra miệng nhưng tất thảy những gì bà Tư có trong tay, từ đồ đạc, vườn tược, bò ngựa cho đến quần áo, kim xuyến đều do ông Quảng tu tạo. Hai người vừa là cậu cháu vừa là bạn thời ấu nhi, rồi sau đó lại cũng là bạn đồng môn. Người ta kể rằng lần đầu xuống tỉnh làm ăn, ông Quảng chỉ mua cho vợ chiếc nhẫn một đồng cân nhưng lại mua cho cháu đôi bông tai hai đồng cân rưỡi. Bà Quảng không dám thở hơi ghen. Biết rõ trong tim ông, cô cháu thiếu nhan sắc kia mới chính là người được tin cẩn và xót xa nhất trên cõi trần, bởi họ bị giằng trói trong một mối liên kết ngoại lệ vừa là tình cốt nhục thâm sâu vừa là sự tương đồng bằng hữu.

Buổi tối đầu tiên ông Quảng dẫn cô Ngân về làng, trong khi tất thảy họ hàng làng nước còn đang tắc họng vì không biết ăn nói xưng hô ra sao, bà Tư móm đã đon đả mời:

- Xin các ông các bà dùng trà xơi bánh. Hôm nay là tiệc ngọt cho mợ Ngân tôi ra mắt láng giềng !...

Rồi bà cao giọng gọi cô Ngân:

- Mợ Ngân hãy dừng tay ra chào hàng xóm . Cứ bỏ đấy cho cháu. Rồi mọi việc khắc xong.

Rõ ràng, thái độ của bà là một sự định danh chính thức, một thứ khẳng định chính thức mà không ai có quyền bắt bẻ. Họ đành tặc lưỡi bảo nhau:

- Ờ, trẻ thì trẻ nhưng theo thứ bậc họ hàng, nó được ngồi chiếu trên.

- Con mẹ Tư móm trung thành với cậu nó thật !

Rút cuộc chẳng còn cách nào hơn là phải chấp nhận người đàn bà lạ hoắc, mới mười tám tuổi ranh kia là cô, là dì, là mợ, là bà trẻ, thậm chí là cụ trẻ theo thứ bậc họ hàng tuy trong bụng chứa đầy ấm ức.

Bữa cơm chiều nay, không hiểu do trời xui hay đất khiến mà bà Tư móm lại đến giúp cô Ngân nấu nướng. Trên nhà chưa cạn ấm trà, bà đã bưng lên một mâm cỗ đầy ngồn ngộn:

- Mời các vị vào chiếu. Mợ cháu tôi dở nồi chè đỗ xanh, ngồi ăn dưới bếp cho tiện.

- Ấy chết, bà xử thế chúng tôi nuốt làm sao nổi... Thời nay dân chủ, bình đẳng bình quyền, đàn bà đàn ông phải ngồi cùng mâm cho vui.

- Cảm ơn các ông, không phải khách khí làm vậy. Hai mợ cháu tôi ở dưới bếp cũng đủ rượu, đủ thịt, đủ món xào món nấu như các ông đây, không thiệt miếng nào.

Nói xong bà te tái xuống bếp, để các thực khách được tự do.

Rồi bữa ăn bắt đầu. Cả sáu người đều im lặng bởi rượu ngon , đồ ăn còn ngon hơn nữa. Quả tình những câu chuyện khó nói không thể nào hoà nhập với một bữa ăn ngon. Chúng phải chờ đến khi tiệc sắp tàn. Khi xương lợn, xương gà, xương cá đã đầy lè quanh mâm, khi rượu ngon đã thấm vào huyết quản khiến con người trở nên hăng hái, hoặc mầu nhiệm hơn nữa, là nhập vào những cơn bốc đồng, lưỡi của họ mới trở nên mềm dẻo, ngôn từ, lý lẽ mới từ các hang hốc trong sọ chui ra. Dường như là hai người em rể của ông Quảng đã chờ rượu ngấm để bắt đầu cuộc sinh sự, cái việc họ cho là trách nhiệm tối cao trước vong linh bà chị vừa chết chưa trọn một năm:

- Cảm ơn bác đã cho chúng em được cơm no rượu say...

Ông thứ nhất bắt đầu:

- Bây giờ, việc ẩm thực đã xong, chúng em xin được cất nhời.

Ông thứ hai hắng giọng nói tiếp.

Chủ nhân cười:

- Các cậu cứ tự nhiên, cổ nhân đã dạy: rượu vào lời ra ! Người xưa đã nói vậy, không ít thì nhiều, phải có lý.

- Cháu Quỳnh đang ở nhà bà ngoại, tâm tư đau buồn, bối rối. Không nói bác cũng hiểu nó ra đi vì sao...

- Cậu nhầm, tôi không hiểu. Những thằng trẻ ranh bỏ nhà trốn học có cả trăm lý do, làm sao tôi có thời gian mà lần mò những chuyện trong túi chúng nó.

- Bác là người ăn cơm thiên hạ đã mòn bát mòn đũa mấy chục năm nay. Còn chúng em chỉ là bọn thôn dân quẩn quanh nơi góc vườn, xó núi. Không dám, mà có dám cũng không đủ tài đấu lý với bác. Nhưng quả thực tình cảnh cháu Quỳnh hiện nay làm tất cả gia tộc phải điên đầu.

- Tất cả gia tộc phải điên đầu ? Cậu nói thực hay bỡn ? Mà gia tộc nhà cậu hay gia tộc bên tôi ? Điều đó phải rõ ràng.

- Gia tộc bên ngoại. Trước tiên là bà ngoại. Rồi đến chúng em đây. Người ta vẫn nói:chết cha còn chú, xẩy mẹ bú dì.

- Tôi hiểu rồi !

Ông Quảng cắt lời rồi cất tiếng cười ha hả. Tiếng cười của ông vang khắp năm gian nhà, vọng cả xuống bếp khiến bà Tư móm lẫn cô Ngân phải thò cổ ra nghe:

- Vì xẩy mẹ bú dì mà mẹ thằng Quý, thằng Quỳnh lại không có em gái nên bây giờ các cậu phải đóng thay vai trò đó... Tốt quá, xưa nay tôi chưa từng thấy thứ tình cảm mặn nồng ấy được bộc lộ... Giờ các cậu đã có tâm, xin các cậu cứ việc lo cho cháu... Như thế là các cậu thương tôi, cất đỡ gánh nặng trên vai tôi. Vậy là cháu của các cậu có phúc, bên nội lẫn bên ngoài đều là chỗ tựa. Con người ta mà được cả hai bề, tả phù hữu bật thì số sẽ đỏ như xôi gấc, mạng chắc tựa thành trì. Các cậu càng lo cho cháu được đầy đủ gia đình bên ngoại càng nức tiếng thơm... Tôi nuôi nó ngần ấy năm, xét ra cũng không còn phải ân hận . Giờ, mười sáu tuổi, nó muốn ăn cơm hưởng lộc nhà ngoại cũng là lẽ thường tình. Ai sống trên đời cũng phải có cả cha lẫn mẹ, chẳng bên nào trọng, chẳng bên nào khinh.

Nói đoạn ông quay lại ba vị khách láng giềng:

- Tiện dịp có láng giềng chứng kiến, tôi nhường toàn quyền huynh trưởng cho hai cậu. Kể từ nay, việc học hành, cơm áo, rồi việc dựng vợ gả chồng cho cháu trong tương lai, bà ngoại và hai cậu sẽ đảm đương. Như thế, hẳn thằng Quỳnh sẽ ưng thuận. Mà mẹ nó dưới suối vàng cũng mát ruột mát gan.

Hai ông em rể chưa đối đáp được lời nào, ông đã gọi với xuống bếp:

- Chúng tôi xong bữa rồi, dưới nhà có chè có cháo thì mang lên.

- Có ngay đây cậu.

Bà Tư móm trả lời. Chưa đầy phút sau, mâm chè được bưng lên . Sáu người tiếp tục ăn tráng miệng. Ba ông khách vừa ăn vừa ngóng đòn đánh trả của hai người em vợ với nỗi tò mò xen lẫn cơn tuyệt vọng. Còn hai ông kia cúi mặt húp chè, không dám ngẩng lên. Hẳn món chè không còn ngọt mà đắng ngắt trong họng. Rồi khi món chè chưa kết thúc, ông Quảng đã gọi vợ mới gói bánh kẹo đem về biếu mẹ vợ cũ, vẻ tươi cười thản nhiên đến mức hai người em vợ chỉ có cách cầm gói quà mà chạy cun cút ra khỏi ngõ, không thể bật nổi một câu chào.

Còn lại ba ông láng giềng với chủ nhân, vừa uống nước xỉa răng vừa chuyện vãn. Ở chốn thâm sơn, buổi tối bao giờ cũng tĩnh lặng hơn dưới đồng bằng . Ông Quảng mở chiếc đài Sương mao cho các vị láng giềng nghe ca nhạc. Chừng nửa giờ sau, các bà các cô đã nhộn nhạo tiến vào sân, người vẩy đèn pin, người cầm đuốc:

- Ông Quảng bật cái đài to lên cho chúng tôi nghe nhờ với...

- Nào, bánh kẹo thành phố hết hay còn ? Chúng tôi đến kiếm miếng cho ngọt giọng chuyện gẫu đêm nay.

- Bà chủ mới đâu , thắp ngọn đèn lên cho thôn xóm được vui.

Đèn măng-xông lại được treo giữa sân , sáng tưng bừng khắp trên nhà lẫn dưới bếp. Bà Tư móm bưng nồi chè đỗ xanh to như nồi cháo lá đa ngày rằm tháng bẩy ra đãi khách, theo kiểu những bếp ăn tập thể: Một thúng bát lẫn thìa sạch bong đặt ngay trên bàn, ai nấy tự động múc ăn. Khi nồi chè cạn, cô Ngân lại tiếp tục mở những thùng bánh và những hộp kẹo mới. Chốn thôn dã, việc ăn uống vẫn là thủ tục không thể thiếu, dẫu người ta thường dáo dác một cách khinh bỉ:

" Miếng ăn quá khẩu thành tàn... ".

Những ngày sau đó nối tiếp trôi qua giống như những lớp lang của một tấn tuồng mà người diễn lẫn người xem đều đóng vai dửng dưng một cách vờ vĩnh. Các diễn viên, chắc chắn là những kẻ thương tổn tâm can. Chủ tịch Quý không cam chịu, như mọi người dự đoán. Anh ta đương quyền. Muốn hay không, quyền lực cũng là thứ sức mạnh nhìn thấy rõ ràng tuy không sờ mó được. Với danh nghĩa chủ tịch, anh ta có thể huy động dễ dàng những kẻ dưới trướng như công an trưởng, chi hội trưởng chi hội phụ nữ, bí thư đoàn thanh niên.. Thêm nữa, có một thứ quyền lực vô danh vô diện vô hình nhưng ai cũng cảm được, ngửi được, ấy là thứ sức mạnh của thói đời... Quý tin vào sức mạnh ấy cũng ngang ngửa như anh tin vào con triện của chính quyền xã, thứ bửu bối mà anh ta đang giữ khư khư trong tay.

Trước hết, Quý phải hiệp đồng với đứa em út, bởi cuộc chiến đấu nào cũng cần lực lượng. Lực lượng càng hùng hậu, thắng lợi càng gần tầm tay. Trong cuộc đấu này, đồng minh đáng tin cậy nhất chính là anh em ruột. " Anh em như thể chân tay, vợ chồng như áo cổi thay qua lần... ". Xưa nay, Quý và Quỳnh ít quyến luyến nhau, phần vì sự cách biệt tuổi tác, phần Quý vẫn ngầm cảm thấy cha mẹ yêu đứa em út hơn anh ta và anh ta sẽ có nguy cơ không được thừa hưởng phần lớn gia tài nếu gã em trai nửa ngơ dại, nửa lẳng tình này thành đạt. Theo thói thường, đứa con út có quyền thế trưởng nếu bố mẹ đồng lòng ưng thuận, một khi con trưởng có những khiếm khuyết về năng lực, tư cách hoặc từ thuở lọt lòng đã mang sẵn những sa sút về trí não. Ông chủ tịch không cảm thấy bị đe doạ vì mình thiểu năng, nhưng chính sự khôn ngoan lọc lõi của ông có thể lại là con dao hai lưỡi, có khả năng quay ngược lại mà " sát chủ ". Bây giờ, sự xuất hiện của cái " con đĩ áo xanh tự nơi nảo nơi nao mò đến" chính là cơ hội để anh ta thử lòng đứa em, thu phục nó và biến nó trở thành cánh tay đắc lực của mình, điều anh ta đã làm với hầu hết những đối thủ trong Xóm Tiều Phu kể từ ngày được bổ nhiệm làm chủ tịch xã.

Về phần Quỳnh, mọi sự hoàn toàn trái ngược. Cậu em trai được chiều chuộng, đang còn ở tuổi trăng gió mải ăn mải chơi nên chưa nghĩ đến sự đời. Đôi khi, thiên hạ có thẽ thọt hỏi:

- Mai đây, nhà cao cửa rộng sẽ về tay ai ?

Quỳnh chỉ cười đáp:

- Hôm qua, hôm nay, và ngày mai đều thuộc về cha tôi hết.

Nếu người ta có gặng:

- Chẳng nhẽ ông bà Quảng chưa hề có ý định làm di chúc hay sao ?

Cậu ta liền đỏ mặt, gân cổ đáp:

- Bố mẹ tôi còn vật đổ trâu, cớ gì phải làm di chúc ?

Sau đó, không ai có thể cậy mồm anh chàng được nữa . Công bằng mà nói, Quỳnh tốt bụng, chỉ có điều ham chơi và ngại việc. Từ thuở lọt lòng đến khi mẹ chết, Quỳnh chẳng nghĩ ngợi gì. Mọi sự đã có người chở che, lo lắng. Ngay đến cái chết giữa đường của bà mẹ, trong khi cậu ta bỏ nhà đi chơi ngủ lại xã bên, giá như người khác, ắt phải tự vò xé tâm can, nỗi ân hận ám ảnh đến mất ăn mất ngủ. Đằng này, anh chàng chẳng mảy may hoảng hốt. Khi bị họ hàng quở trách, cậu ta rầu rĩ mất vài giờ rồi sau đó đến bữa ăn lại đánh thẳng da bụng, chùng da lưng. Rồi tối đến, lại chổng cu lên mà ngủ. Y hệt đứa bé lên ba . Họ hàng nói mãi cũng chán miệng, phàn nàn với ông Quảng, ông chỉ cười cười:

- Cha mẹ sinh con trời sinh tính. Tôi biết làm sao ? Nhà này chỉ có hai đứa sinh đôi là lo ăn, lo làm lại biết tính trước tính sau. Nhưng chúng nó đã đầu quân cùng một buổi...

Rồi ông buông tiếng thở dài, và mắt ông dâng lên nỗi buồn mà mọi gia đình có con tại ngũ đều thấu hiểu.

" Thời ly loạn, nước mắt rơi như suối.
Cỏ mọc trong vườn, sông vắng chuyến đò sang. "

Đôi người phụ hoạ với ông:

- Cảnh nhà tôi cũng thế, đứa khôn bỏ ra mặt trận hết... Còn lại ở nhà không thằng đụn rạ thì cũng đấm đơ.

- Cứ gì chúng ta ! Mọi nơi đều thế cả. Nước non là nước non chung. Chiến tranh đã tới, không cánh cửa nhà ai không bị gió đập.

Người ta cho ông Quảng là người bố vị tha, dễ tính. Người ta cũng cho rằng cậu út Quỳnh có lớn mà không có khôn ; tuy chẳng đến nỗi đấm đơ nhưng chắc chắn không phải là gã trai đàng hoàng, biết ăn ở một cách chỉn chu, biết phận sự của mình đối với gia đình cũng như xã tắc. Riêng chỉ có việc cắp sách đến trường cậu ta cũng đã làm khổ bà mẹ bao nhiêu lần....

Vậy mà không hiểu vì sao cái gã đoảng vị, vô tâm, dấm dớ ấy lại bỏ nhà ra đi ngay hôm đầu, khi xuất hiện người mẹ kế trẻ. Có lẽ, đó là nỗi băn khoăn lớn nhất của xóm giềng, và trước hết, của ông chủ tịch xã. Anh ta lặn lội xuống thôn Hạ tìm hiểu căn duyên. Không cần lâu la, hai ngày sau người làng đã biết rằng cậu út Quỳnh phải lòng bà mẹ kế. Ngay phút đầu tiên khi cô Ngân đặt chân vào nhà, chàng trai đã chết lặng đi vì vẻ đẹp xiêu đình đổ quán của cô gái áo xanh kia ; và trong trí tưởng tượng nó nghĩ rằng cô là người vợ mà trời đất dẫn đến cho chính nó, bởi " gái hơn hai trai hơn một ", cô Ngân với nó vừa xoẳn cái công thức vàng cho hôn nhân , cái công thức đã được thử thách qua hàng ngàn năm... Chắc chắn cơn mộng tưởng được xây cất trong chớp nhoáng rồi tức khắc đổ vỡ. Tất cả tấn bi kịch trong lòng chàng trai xảy ra vẻn vẹn trong vòng nửa ngày trời. Từ buổi sáng chiếc xe ngựa của ông Quảng đưa cô dâu mới về làng cho tới lúc nhập nhoạng mặt người, khi nó lẳng lặng bỏ nhà xuống thôn Hạ...

Chuyện con trai mê vợ kế của bố xưa nay không hiếm, trong những trường hợp như thế người ta vẫn thường kết án người đàn bà lẳng lơ đĩ thoã " quân vô luân vô loài, chài cả bố lẫn con ". Sỉ nhục người đàn bà là sự dễ làm nhất, nó khiến đám đông hả dạ, dẫu rằng trong đám đông ấy phần lớn lại chính là đàn bà. Tuy nhiên, đối mặt với tấn kịch của cậu út Quỳnh, dân làng ngần ngại không dám chửi " con đĩ thị thành vô loài vô luân muốn ngủ một lần với cả thằng con lẫn ông bố ! ".Trước hết, bởi cô Ngân vừa về làng được nửa ngày, dù có đĩ cũng chưa đủ thời gian hành nghề quyến rũ. Điều thứ hai, và điều này quan trọng hơn: ông Quảng đứng sừng sững bên cạnh cô Ngân. Có nói hay không người ta cũng ngầm hiểu: Lão già lọc lõi ấy không ngán ai bao giờ.

Bởi thế nên khi ông chủ tịch tung câu chuyện cậu út Quỳnh mê cô Ngân khắp xóm cùng thôn, nó cũng chỉ kích động được những nhóm người đang cần xin con dấu cho một bản sao lý lịch, hoặc giấy chứng nhận khai sinh, kết hôn, khai tử. Mà ngay những người này, cũng chỉ dám nịnh nọt cho qua chuyện còn sau đó tìm cách lảng mặt Quý:

- Đừng chọc mồm vào chuyện nhà người ta !... Lôi thôi đá củ đậu nó ghè vỡ sọ.

Dân Xóm Tiều Phu bảo nhau lấy chỉ khâu thật chặt hai mép lại. Nhưng trên đời, mọi sự " tự bảo nhau " hay là " tự nhủ " chỉ là phương thức trốn tránh hay thoái thác sự thực mà thôi. Giống như những đứa trẻ càng sợ ma thì càng thích nghe kể chuyện ma, người ta càng làm ra vẻ vô tư thì trong bụng càng sôi sục tò mò lẫn đố kị. Có cố nhịn chăng nữa, cũng chỉ được hai mươi bốn giờ... Sau đấy, người ta lại kháo nhau rành rẽ đã mấy lần ông chủ tịch đến tìm cậu em, họ nói với nhau những gì, sau rốt ông anh cả chửi cậu em út là:

" Đồ cù lần, đồ đụn rạ, cơm chẳng muốn ăn, bỗng dưng bưng bát cứt mà và... " .

Người ta cho rằng cậu út vốn tính hiền lành, nhả nhớt, vừa sợ cha, vừa xấu hổ vì mê mẹ kế như điếu đổ nên anh xui khôn xui dại gì cũng cứ một mực lắc đầu:

" Em chịu thôi, làm như thế trời bắt tội chết ! ".

Như vậy mưu kế liên minh của Quý thất bại trăm phần trăm. Kể từ nay, cuộc chiến sống mái này chỉ còn lại mình anh ta giữ một bên trận tuyến.

Lúc ấy, đã là những ngày cuối cùng của năm cũ, nhà nhà đều chuẩn bị đón tất niên. Năm nay, ắt hẳn Tết phải to vì năm ngoái trời quá rét nên hầu như chẳng còn ra vẻ Tết. Ai cũng chờ đợi sự bù trả của trời đất để có được một dịp vui vẻ, hội hè. Bãi đất đầu thôn Thượng đã dọn sạch, đào sẵn lỗ cắm cọc chuẩn bị cho cuộc thi cờ. Bên cạnh đó người ta cũng sẵn sàng cho các trò chọi gà, thả chim. Năm nay, dưới huyện đăng cai cuộc thi chọi trâu nên dân Xóm Núi cũng cử người xuống dự. Dẫu đang bầm gan tím ruột, chủ tịch Quý cũng phải lo đi mời đội chèo về diễn đêm tất niên, bởi món ăn tinh thần là một trong những điểm quan trọng người ta vẫn nhìn vào mà đánh giá năng lực các quan chức xã. Mờ sáng ngày hai mươi tám, chủ tịch rủ cô Vui cùng xuống huyện, lo việc tổ chức đêm liên hoan. Ở dưới đó, anh ta sai cô bí thư chi đoàn:

" Cô đi dò cho ra tung tích con Ngân, còn những việc khác, một tay tôi lo được . ".

Thế là theo công thức: nhất cử lưỡng tiện, cuộc xuống núi này hoá ra để vừa lo việc nước việc làng, vừa giải quyết mối thù nghịch riêng tư, quả là con tính hoàn hảo.

Phần cô bí thư chi đoàn, vừa chấp hành mệnh lệnh cấp trên, lệnh của chủ tịch lẫn phó bí thư chi bộ xã, lại vừa có dịp thoả thích nỗi tò mò mà ở địa vị một cô gái không chồng, cô phải che đậy cho thật kĩ, một thứ che đậy công phu như người ta nút cho chặt một hũ mắm đã trở mùi. Trong tâm trạng háo hức như vậy, cô không ngại ngần trổ hết tài thao lược vốn sẵn có ở một người luôn luôn đóng vai gia chủ. Nếu nói: Mạnh vì gạo bạo vì tiền, thì cô là con người có quyền mạnh bạo hơn hẳn nhiều người đàn bà khác. Thế nên, sau khi chia tay ông chủ tịch, cô chạy tuột xuống công trường tỉnh, nơi ông Quảng là một trong ba ông xếp uy tín nhất của đám thợ nề, thợ mộc ; cũng lại là nơi ông đã gặp cô Ngân. Vui tin chắc rằng mọi đầu dây mối nhợ là ở đấy.

Cô không lầm, chỉ trong nửa ngày cô đã thâu tóm được toàn bộ tình sử của cặp vợ chồng tuổi tác khập khiễng kia. Qua buổi trưa, cô dúi tiền vào túi một tay lái xe công trường:

- Đồng chí cho nhờ một chuyến Hà Tây. Tôi cần giải quyết việc khẩn cấp của gia đình.

Lái xe khật khưỡng đáp:

- Trên nguyên tắc, chúng tôi không có quyền cho người ngoài công trường leo lên xe...

Nhưng nói xong, anh ta cũng khật khưỡng thọc hai tay vào túi, mồm chẩu ra huýt sáo. Trong chiếc túi áo bảo hộ lao động thùng thình, chắc chắn anh ta đã nắn kĩ chiếc phong bì cô Vui tuồn vào, định giá nó một cách chính xác. Khi câu nhạc chấm dứt, anh ta liền hất hàm bảo phụ xe:

- Ra phía sau đi thằng nhóc.

Thằng nhóc phụ xe vọt ra phía thùng xe tức khắc, ở đó nó ngồi kẹt giữa những chồng bao xi-măng và những bè gỗ cốp-pha mà nói dại, nếu xảy ra va lắc đột ngột hay đụng xe khác, chắc chắn nó sẽ bị đè bẹp như con gián dưới những chồng cốp-pha khổng lồ kia.

Khi cậu phụ lái yên tâm hạ tấm vải bạt xuống rồi, lái xe quay lại tặc lưỡi bảo cô Vui:

- Thôi được, nếu đồng chí đã có việc khẩn cấp trong gia đình... Lên xe đi...

Cô Vui leo lên ca-bin, chĩnh chện ngồi cạnh anh chàng lái xe, một gã trai đen thủi đen thui nhưng còm nhom như con nhái. Với vẻ hùng dũng như thế, cô đã đi tới tận làng Khoai, xã Hưng Mỹ, tỉnh Hà Tây, để: Tìm cho được cái tổ con chuồn chuồn....

Tối hôm đó, chủ tịch Quý về xã nhưng cô Vui còn phải ngủ trọ nơi đất khách để hoàn thành cái sứ mạng mà ông chủ tịch đã giao phó. Sẩm chiều hai mươi chín mới thấy cô trở về, mặt tươi như hoa, vai vác một túi đầy hàng Tết. Chủ tịch Quý đứng đón cô ngay lối vào thôn Trung:

- Thế nào ?

- Chuyện đâu có đó. Cứ bình tĩnh.

- Hôm nay cô lên mặt gớm nhỉ.

- Không lên mặt, nhưng tiền tàu xe lẫn quán trọ đã hết cả tạ thóc rồi đấy, ông anh ạ .

- Tôi khắc đền.

- Cả đời, con Vui này chưa từng nhận tiền đền của ai.

Cô bí thư chi đoàn xã đáp với giọng chắc nịch của người lúc nào cũng nặng hầu bao. Quý định vác giúp cô Vui bó hàng tết vào nhà nhưng sực nhớ ra rằng điều đó là lố bịch, không khéo ai nhìn thấy người ta lại cười cho thối mũi, anh ta liền lẽo đẽo đi theo cô gái. Chắc hẳn đọc rõ vẻ bồn chồn trên mặt Quý, Vui liền cao giọng quát:

- Anh về đi. Chuyện để đến mai đến kia chưa thối. Giờ đã sắp ba mươi tết rồi, em còn phải lo thu dọn cửa nhà, chuẩn bị bàn thờ ngày mai cúng giỗ. Vả lại, còn phải đun nước tắm gội nữa chứ. Hai ngày đi đường, ăn nhờ ở đậu, bẩn thỉu ngứa ngáy như điên, bụi đen kịt lỗ mũi, sờ lên tóc nhám như mùn cưa.

- Ờ ờ... thôi thì tôi về vậy. Mai cô đi xem chèo chứ ?

- Đương nhiên. Cả năm có một lần, ai dại mà bỏ ?

Quý vội vã đi luôn vì nhớ ra cô gái già này thờ cúng cả chuyện tắm gội. Người ta nói rằng hễ Vui đang cần tắm gội mà ai phá đám là cô sẵn sàng nổi khùng lên, rượt đuổi họ tức khắc. Nước tắm gội của cô gồm lá bưởi vỏ bưởi, hương nhu, cỏ mần trầu, củ sả, hoa quế. Tất cả được trộn theo một tỷ lệ nhất định và được đun trong chiếc nồi đồng bẩy, nước bắt đầu sủi tăm là hương thơm toả nức xóm. Thêm nữa, mỗi lần tắm gội, cô lại còn thắp nhang trầm cho mùi hương huyền bí kia tẩm đượm vào tóc lẫn da , thành thử việc tắm táp của cô giống như việc tắm gội của các cung phi thuở trước. Chỉ có điều, các cung phi thuở trước chăm chút da thịt, nhan sắc là để gợi tình đức vua, còn cô, không hiểu ai sẽ là đấng quân vương mà cô thương trộm nhớ thầm ? Thôi thì, đành phải chờ thời gian hoặc các bậc quỷ thần phân giải.

Ra đi nhưng dẫu sao ông chủ tịch cũng không cắt nổi cơn ấm ức:

" Hoá ra cái con gái già này chẳng nể nang ai... "

Anh ta vừa đi vừa rủa thầm, mặt nóng phừng phừng dù trời đang rét. Cố quên đi nhưng không quên nổi, cứ nghĩ lại cảnh bị đuổi, cun cút chạy ra khỏi nhà " con gái già " như bất cứ kẻ láng giềng nào thường đến cửa cô ta để xin đường, xin mỡ, vay tiền hoặc nhờ chạy máy nổ... là mạch máu Quý lại giật đùng đùng hai bên thái dương:

" Nó xem cá đối bằng đầu, xem cứt cũng như rươi. Con này mất dạy thật. Nó quên rằng chính mình là người đầu tiên gợi ý cho chi bộ cử nó làm chi đoàn trưởng. Cái quân ăn cháo đái bát. Không trách trời chẳng thí cho một tấm chồng ! "

Anh ta đi hết một vòng quanh thôn Trung, gật đầu chào lại những người khác một cách máy móc mà chẳng phân biệt được ai với ai. Nỗi xốn xang đốt lửa đùng đùng trong dạ. Vào giờ này, mọi trách nhiệm với xã đã xong. Chuyện tết nhất, cúng bái trong gia đình xưa nay vợ con cáng đáng hết. Trong óc Quý chỉ quay cuồng một hình dáng, một cái tên, một màu áo xanh, một nụ cười lúng liếng.... tất thảy những gì thuộc về: Con đĩ Ngân !

" Con đĩ Ngân, con đĩ Ngân, con đĩ Ngân... "

Anh ta thầm chửi. Nhưng trong lúc thầm chửi, anh ta vẫn hiểu rằng anh ta đang chửi người khác một cách vô chứng cớ, và điều cốt tuỷ với anh ta bây giờ là phải chứng minh bằng được:Con đĩ Ngân thực chính là con đĩ, một con đĩ trăm phần trăm...

Nhưng tiếc thay muốn chứng minh điều ấy lại phải nhờ tay con Vui, cái con gái già đồng bóng và hỗn hào kia, chính ả mới có thể cung cấp chứng cứ. Cùng là lũ đàn bà cả, mèo đói ắt phải tìm được cách cào cổ mèo no. Buộc con gái già này đi bới lông tìm vết con đĩ vú mẩy kia là thượng sách. Nhưng ngựa hay thường có tật, con Vui tháo vát nổi tiếng nhưng kiêu căng, ương ngạnh thì cũng chẳng ai bằng... Những ý nghĩ ấy đưa Quý theo con đường quen trở lại thôn Thượng. Anh ta chợt nhận ra rằng đã sắp đến nhà mình. Gió lạnh dọc đường chừng cũng làm nguôi đi cơn uất ức. Sau rốt, ông chủ tịch đành tự an ủi:

" Nhưng bây giờ, có ức nổ cổ nổ ruột cũng chẳng làm gì được nó. Chính nó mới là kẻ biết rõ ngọn ngành mọi chuyện chứ chẳng phải mình. Mà con gái già này không phải đứa dễ nghe ai. Thôi, đất chẳng chịu trời thì trời đành chịu đất. Ta phải xử nhũn với nó vậy "

Anh ta bước qua cổng, vừa lúc hai đứa con gái khiêng chậu quất từ vườn vào sân trong. Dưới bếp, nồi bánh chưng sôi lục bục, mùi bánh thơm dâng đầy không gian. Lác đác đã có tiếng pháo tép của trẻ trong thôn. Không khí tết xem chừng đang tràn ngập. Quý vào nhà, ném chiếc xắc-cốt da bò lên bàn rồi duỗi thẳng chân nằm dài trên tràng kỉ. Nhắm mắt lại, ông chủ tịch hình dung ra cảnh đêm mai: Đêm mai, sẽ là đêm tất niên chính thức, năm nay tháng chạp có ba mươi ngày. Đêm mai, sẽ là đêm cuối cùng của cái năm rủi ro này. Đội chèo huyện sẽ về đây diễn tích: Thị Mầu lên chùa. Chắc chắn ông Quảng và con đĩ Ngân sẽ ở nhà chứ không đi xem. Sự vắng mặt của họ sẽ là cái cớ tốt nhất để dân làng đàm tiếu và lúc ấy, con Vui sẽ ra tay. Chuyến đi của nó ắt phải đem lại thành công cho mình. Đêm mai, sẽ là đêm chiến thắng. Anh ta vuốt bụng, thở đánh ực một tiếng rồi quát:

- Đứa nào đun cho tao nồi nước lá mùi. Cả tuần rồi chưa được tắm !...

***

Công trường xây dựng của tỉnh luôn luôn có ba đội quân thường trực hành nghề, dưới sự cai quản của ba ông cai thầu, thường được gọi dưới cái danh mĩ miều: Cán bộ quản lý ngoài biên chế của tỉnh. Ông Quảng chính là người cai quản đội quân nề, mộc của tỉnh sở tại. Ông thứ hai dẫn quân lên từ tỉnh Hà Tây. Ông thứ ba là xếp sòng của đội quân Phú Thọ. Trừ cánh quân của ông Quảng, hai đội quân kia kèm theo rất nhiều đàn bà, con gái. Họ chính là dân cày cuốc bạo gan, sớm tìm cách kiếm miếng cơm ở xa nơi chôn rau cắt rốn.

Từ thuở sinh ra thị thành, đã hàm chứa một cách biệt định mệnh giữa cuộc sống của phố phường với cuộc sống nơi thôn dã. Sự cách biệt này chưa bao giờ được lấp đầy:

" Nhà giàu xứ quê không bằng ngồi lê thành phố. "

Kiếm được bát cơm nơi đồng làng vô cùng khó nhọc, ngoài cây lúa người ta chẳng thể tìm được nguồn sản sinh lợi tức nào khác. Ở những nơi nửa cận non, nửa cận ruộng như Xóm Tiều Phu, còn có thể nuôi bò nuôi trâu, nuôi ong, thả gà vịt... Nhưng nơi bình nguyên, cửa nhà chật hẹp, người sinh sôi đông đúc, những bờ cỏ hẹp như giải áo không mọc đủ cỏ nuôi trâu cày, huống chi tính chuyện chăn nuôi... Mọi sự trông vào cây lúa, mà cây lúa vốn còi cọc không thể gánh đủ thứ tiền chi tiêu: Tiền muối mắm, dầu đèn, tiền quà bánh lễ tết, tiền ma chay cưới xin, tiền thuế má, tiền quần áo tư trang, tiền học hành thuốc thang cho trẻ... Vì lẽ đó mà đội quân nề mộc của ông Quảng không có một ả nạ dòng, nhưng ở hai đội quân kia, đầy nhóc đàn bà lẫn con gái. Người ta vẫn gọi chung họ với một cái tên chứa ngầm sự khinh bỉ: Gái công trường...

Cụ thể hơn:

" Trai quán Nái, gái công trường ".

Quán Nái là nơi ngã ba đường, nơi những đoàn xe ngược xuôi khắp châu thổ sông Hồng thường dừng lại ăn uống, tắm gội, hoặc tìm những thứ nhu cầu khác trong bóng tối. Có cầu đương nhiên phải có cung, dù nhà nước ngăn cấm bằng mọi cách. Tàn đi phá lại thì sau rốt chính quyền cũng phải ưng thuận để dân phố Nái dựng lên một dãy dài những quán cơm, quán phở, nhà trọ bình dân, quán chè nước hoa quả, bánh trái và trăm thứ bà rằn khác. Trai quán Nái vốn có biệt tài buôn bán . Cũng từ lâu do rủng rỉnh tiền họ thường có thú trăng hoa, cờ bạc, mà ở nơi nào trò đỏ đen đã tồn tại thì những người bạn đồng hành với nó như lừa đảo, thanh toán ân oán giang hồ đều không thể thiếu mặt. Dưới con mắt người bình thường tuân thủ sống một cách nề nếp khuôn khổ, những cuộc ăn chơi long trời lở đất, cũng như những cuộc chém giết đẫm máu của lũ trai quán Nái giống một thứ bệnh dịch hạch, một cơn đậu mùa khủng khiếp mà thiên hạ phải tránh cho xa.

Xếp hàng thứ hai sau trai Quán Nái, là gái công trường, những thôn dân đã tháo cũi sổ lồng, những người được mệnh danh là: " bọn nhà quê học đòi " theo giọng lưỡi đỏng đảnh của đám dân đô thị hoặc là " bọn động cỡn " theo cái nhìn gờm gờm ngờ vực của chính dân quê. Dưới cả hai cái nhìn thù nghịch này thì những người hôm qua chân lấm tay bùn nơi ruộng sâu hay đất bãi, hôm nay còng cổ co vai khuân gỗ vác gạch nơi công trường là lớp người sỗ sàng, tự do quá trớn. Cuộc sống chung chạ giữa đàn ông đàn bà, trong khung cảnh tấp nập nhộn nhịp của việc xây dựng, cũng như những cuộc di chuyển không ngừng hết nơi nọ đến nơi kia ; trước con mắt những thôn dân suốt đời gắn bó với một mái nhà, một mảnh ruộng, tự che chắn đời đời kiếp kiếp sau một mái đình và những luỹ tre nghìn tuổi là một cuộc sống đáng hồ nghi về đức hạnh:

" Ăn đợ, ở tạm... lang thang như lũ phường chèo, như gánh hát rong... "

Thứ cuộc sống lạ lùng, bất yên như thế khiến họ nửa thèm thuồng nửa kinh hãi. Thói đời, cái gì đã khác ta, thì cứ nhổ vào nó trước đi đã... Nếu không tiêu diệt được, thì cứ ném một hòn đá lên cho chắc ăn.

Do hiểu được cái tâm lý đó, những người đàn bà vùng quê khi bứt áo ra đi , một bên vai mang nặng những gánh nợ của gia đình, vai kia chất chồng những sỉ nhục mà chính những dân quê ném lên họ, đâm ra liều lĩnh. Họ cố tình tạo ra một thái độ thách thức với xã hội, một vẻ bất cần, một thứ xuồng xã trong lối ứng xử, và coi sự phản kháng này là sức mạnh giúp họ đứng vững.

Vậy, cô vợ trẻ của ông Quảng là một trong số những người đàn bà như thế. Những cô phu hồ, những cô thợ quét vôi, những cô thợ xây... những người đàn bà gánh vác thứ công việc nặng nề mà thường chỉ đàn ông mới đủ sức vóc đảm nhiệm.

Một buổi sáng, ông Quảng mải mốt đi qua khu đất trống, nơi cắm một hàng rào tạm bợ bằng những cây cọc gỗ cao chưa đầy thước rưỡi làm ranh giới thi công giữa đội quân của ông và đội nề mộc tỉnh Hà Tây, chợt nghe tiếng cười ré lên từng hồi của đám con gái. Ngạc nhiên, ông quay lại nhưng rồi chẳng thấy một ai quen nên lại tiếp tục thẳng đường mà bước. Ngay lúc đó, ba bốn cô gái lên tiếng nheo nhéo gọi, với cái giọng Hà Tây không trộn lẫn được vào đâu:

- Này ông gì ơi... Này anh gì ơi...

- Này, ông anh " kháu lão " ơi, quay lại đây có đứa gọi..

- Ớ anh già bảnh trai, kháu lão ơi... Quay lại đây có ả muốn nói chuyện này... Ớ anh trai già...

Trong bụng hơi khó chịu nhưng ông Quảng nghĩ rằng nếu bỏ đi, họ tưởng ông là kẻ non gan và lần sau họ sẽ tiếp tục trêu cợt một cách sàm sỡ hơn... Ông quay lại, bước tới trước đám con gái lẫn nạ dòng, cả thảy hơn một chục người đang ngồi chen chúc ngay trên đống cốp-pha.

- Tôi đây.

Ông nói, nhìn khắp lượt những gương mặt bịt kín dưới các loại khăn chỉ còn ló ra đôi mắt đang tít đi vì cười:

- Tôi đây. Nào, ai muốn nói chuyện thì đứng lên. Tôi không quen ngồi xổm...

Đám đàn bà túm tít quay lại một cô áo xanh, khăn bịt mặt cũng màu xanh, và đôi mắt không còn cười mà đang chớp một cách bối rối:

-Ả ta đây. Chính thị đứa muốn gọi ông quay lại.

- Cô nàng Ngân, lên tiếng đi kìa...

- Chính cô ta đặt tên cho ông là " Anh già kháu lão " Bây giờ lại im thin thít như thịt nấu đông...

Tới đó ông Quảng cũng bật cười, đưa mắt nhìn cô gái bịt khăn xanh và nhận ra đôi mắt cô ta đẹp mê hồn, đôi mắt ông chưa từng thấy từ khi biết chú ý tới kẻ khác phái, nói một cách văn vẻ thì đó là " mắt đào hát ".

Không ai nói gì thêm nữa và ông thấy đám đàn bà sắp rơi vào cảnh bối rối nên quay đi.

Hai tháng sau, tàn bữa rượu với đám thợ, ông Quảng quay lại nơi nhà trọ trong thành phố. Lúc đó đã sắp nửa đêm, công trường tắt gần hết các ngọn điện chỉ còn để lại những ngọn đèn trên kho vật liệu hoặc những nơi xung yếu mà kẻ trộm có cơ đột nhập. Ông Quảng vẩy đèn pin bước qua những lối mòn do chân thợ vạch ra trên nền đất đá công trường. Chợt ông nghe tiếng đàn bà kêu thét phía sau một khu nhà vừa hoàn thiện phần cốt gạch, chưa trát vôi vữa. Tiếng kêu ấy là tiếng kêu của một người đàn bà tỉnh Hà Tây:

- Buông tôi ra !... Giời đất ơi !...

- Giời đất ơi !... Cứu tôi !...

Ông chạy về phía tiếng kêu cứu. Ánh đèn pin rọi vào hai bóng đen đang quần thảo quyết liệt. Người đàn bà tóc xoã tả tơi, quần lẫn áo rách tung từng mảnh. Gã đàn ông to lùn như con gấu ngựa, bận bộ đồ xám. Ném cây đèn sang một bên ông nhào vào táng hai cú đấm liên tục như búa tạ vào chính giữa mặt gã:

- Bắt nạt con đàn bà này !...

- Quân hãm hiếp đàn bà này !...

Một cú đấm nữa móc vào hàm. Rồi ông túm lấy tóc con mồi khi gã đang còn chưa định thần được kẻ tấn công gã là ai. Dùng sức lực toàn thân ông đập đầu gã vào tường tin chắc đó là cú đòn quyết định.

Cú đập đầu ấy đúng là cú đòn quyết định như ông dự tính. Gã đàn ông quỵ xuống, bật tiếng kêu của loài thú dữ trúng thương. Để chắc ăn, ông bồi cho gã hai cú đá nữa. Khi đã thấy gã không còn hy vọng gượng dậy được, ông mới nhặt cây đèn pin, rọi vào mặt cái thứ " quân hãm hiếp đàn bà... ". Một nỗi kinh hoàng tức khắc chạy qua như cơn chớp: Đó chính là gã phó quản trị văn phòng xây dựng của tỉnh. Gã không trực tiếp giao việc, định giá tiền công, lương thảo cho mấy ngàn con người trên công trường này nhưng gã là tay chân thân tín của con người quyền lực đó. Chính vì thế, vừa từ trường trung cấp xây dựng ra mới được hai năm, gã đã được ông ta bổ nhiệm làm phó phòng để tiện việc sai bảo .

Trong tình thế ấy, hoặc trời xui đất khiến, hoặc vị thần hộ mạng mách nước, nên ông đã hành động một cách khôn ngoan. Rút cây tù và vẫn đeo nơi cổ như một thứ bùa, ông thổi ầm ĩ khiến cả khu công trường đang im ắng bỗng nhiên vang động như xóm làng thời chạy giặc. Tiếng tù và lan đến khu lán trại thợ lẫn khu cán bộ quản lý công trường. Bao năm nay chưa từng có sự lạ lùng như vậy nên mọi người tay đèn tay đuốc lũ lượt chạy tới. Khi nghe tiếng chân người rầm rập sắp tới nơi, ông mới quay sang người đàn bà bị hại:

- Cô đứng yên, không được bỏ trốn nghe chưa. Giữ nguyên áo quần rách rưới , giữ nguyên cảnh giằng xé giữa thằng đàn ông kia với cô. Tình cảnh đã thế này, không việc gì phải xấu hổ. Cô mà bỏ trốn bây giờ là giết tôi. Hiểu chưa ? Còn nếu người ta hỏi sao cứ đúng sự thực mà trình bày.

- Em rõ rồi ạ.

Người đàn bà đáp và ông chợt nhận ra một vẻ quen thuộc mơ hồ trong giọng nói của cô ta. Nhưng phải chờ đến khi đèn công trường bật sáng choang, khi đám đông đã vây kín họ, ông mới biết cô ta chính là cô gái áo xanh, kẻ đã đặt tên ông là " Anh già kháu lão "... Chính cô ta... Và như thế, dường như định mệnh đã liên kết họ...

Phần sau đó, không có gì nhiều nhặn. Một khi dưới ánh đèn sáng choang, phơi bầy cảnh một cô gái bầm dập , áo quần bị xé tả tơi , một gã đàn ông bị đánh gục trên sàn, mặt còn đầm đìa máu tươi , hơn thế nữa khuy quần đang còn cởi sẵn, ngay lập tức người ta hình dung ra mọi sự. Không cần quá nhiều lời bình phẩm. Tuy nhiên, bao nhiêu năm lăn lộn kiếm ăn, ông Quảng đã quá thuộc bài học:

" Bảo vệ uy tín đảng và nhà nước " .

Ông hiểu rằng người ta có thể lật lại nước cờ như trở bàn tay và lúc đó chính ông sẽ trở thành kẻ phải thí mạng trong trò chơi đường đột này. Vì vậy, ông nhất thiết yêu cầu ban quản lý công trường mời công an tới làm biên bản. Rồi tức khắc, ông vận động đám công nhân đòi ba lực lượng phải chính thức làm chứng nhân: chính quyền, ban đại diện công trường, công đoàn tỉnh. Dù đêm khuya, đại diện của cả ba tổ chức trên đành phải lần lượt kéo đến để kí xác nhận. Vốn là người có tài ăn nói, ông Quảng liền mượn dịp tuyên bố trước đám đông:

- Chúng tôi dẫn vợ con thiên hạ rời bỏ quê quán đi kiếm miếng ăn nơi đồng đất xứ người nên không thể để họ bị hà hiếp. Nếu chúng tôi làm không đủ phận sự, họ nhổ vào mặt chúng tôi. Nay là đàn bà Hà Tây, mai chưa biết chừng, là người Phú Thọ hay dân sở tại. Đối với ai, chúng tôi cũng yêu cầu nhà nước phải bảo vệ người vô tội và trừng trị kẻ côn đồ. Nếu kẻ côn đồ ấy mà chui vào hàng ngũ cán bộ nhà nước thì càng phải nghiêm minh.

- Chúng tôi đồng lòng với ý kiến ông Quảng !

Hai ông xếp của các đoàn nề mộc tỉnh bạn hưởng ứng tức khắc, họ nhìn thấy quyền lợi của chính họ được bảo vệ trong cơ hội này. Bởi sự việc xảy ra với ông Quảng " kẻ quen ăn sóng nói gió, tim rắn như gang, gân cứng hơn thép " chứ nếu xảy ra với họ, ắt chỉ có cách đổ tội cho cô gái kia là: " Con đĩ ngựa quyến rũ cán bộ đảng " và tìm cách đẩy cô đi khỏi công trường càng nhanh càng tốt. Thế nên, núp sau lưng ông, họ cao giọng nhắc đi nhắc lại cái điệp khúc:

- Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với ông Quảng. Công trường có nhiệm vụ bảo vệ nhân công.

- Để giữ gìn nghiêm minh uy tín của đảng và nhà nước, chúng tôi yêu cầu xử kẻ có tội.

Còn về phía những người dân quê đang khoác quần áo bảo hộ lao động, cơn uất hận ào tới như thuỷ triều. Người bị hại đứng trong đội ngũ của họ, trong nấc thang tận cùng của cái xã hội thu nhỏ này. Cái tai hoạ mà người đàn bà kia gánh chịu có thể sẽ chờ họ trên đường đời, vào một ngày nào đó chẳng ai có thể đoán trước. Sự sỉ nhục mà hôm nay cô ấy phải nếm rất có thể sẽ là món quà cay đắng của số phận dành cho họ vào một khoảnh khắc đen đủi trong tương lai. Ở hoàn cảnh của những con người chân lấm tay bùn, mặc cảm và sự tủi nhục luôn luôn là những lò than không bao giờ tắt, ủ giữ ngọn lửa căm thù và phản kháng . Vào những dịp như thế, tình bằng hữu sống dậy cùng một lượt với ý thức thương xót bản thân. Đàn ông cũng như đàn bà, nhìn thấy trong cô gái bị giằng xé tả tơi kia bản diện xiên ngang của chính họ, như tấm gương soi của số phận, phản chiếu những kiếp người hẩm hiu trong cuộc sinh tồn. Bởi vậy, sau những lời lẽ rắn đanh của ông Quảng, cơn giận dữ bùng nổ, tựa hồ người ta rút chốt khoá một đập nước cho dòng nước hung dữ xối xả tuôn ra. Đám đông vây quanh gã phó phòng xây dựng, giờ đã ngóc đầu dậy nhìn mọi người với đôi mắt đẫn đờ. Họ la hét, chửi rủa. Họ nhổ nước bọt, họ đạp vào lưng y. Đám cán bộ quản trị lẫn tay trưởng ban bảo vệ công trường đều phải kí vào biên bản trước cơn phẫn nộ của đám thợ. Sau đó, không có cách nào hơn, trưởng văn phòng ra lệnh kỉ luật gã đàn em, chuyển sang phụ trách công trường đập đá ở Yên Bái. Sự việc diễn ra theo cách thức mà người ta thường gọi là hiệu ứng dây chuyền. Trưởng phòng xây dựng có vẻ hoang mang trong vài ba ngày đầu. Dường như ông ta không muốn hiểu sự việc. Nhưng rồi thói quen lười suy nghĩ giúp ông ta bắt lại nhịp điệu của cuộc sống bình thường rất nhanh. Vả chăng, ông ta cũng chẳng cần áy náy nhiều, vì kẻ nịnh nọt thời nào cũng sẵn cả đống, một thằng rơi mười thằng khác sắp hàng nhảy vào thế chỗ. Chưa đầy hai tuần sau, ông ta đã có một tay phó văn phòng khác. Gã đệ tử mới nhỏ bé hơn, bảnh trai hơn, và đắc lực hơn.

Sau sự kiện này, ông Quảng nổi tiếng khắp công trường lẫn thành phố như một vị anh hùng, một Từ Hải tái sinh. Và như thế, tất cả mọi người đều được hài lòng.

Khi mọi sự đã yên lắng lại, chính là lúc tình sử của họ bắt đầu.

Khởi sự, nàng áo xanh tìm cách gặp ông, một tay xách túi quà, tay kia cầm hai chai rượu thuốc:

- Em xin đến cảm tạ ông. Không có ông, chắc em không thoát nổi thằng cha ấy.

- Không có gì !Tôi là người đàn ông, giữa đường thấy sự bất bằng chẳng tha. Những người khác gặp chuyện phi đạo lý như thế ắt hẳn cũng hành sự như tôi.

- Sự đời không có vậy. Ông nói khiêm tốn thôi.

Cô gạt phắt đi một cách quả quyết khiến ông chẳng biết nói gì hơn. Rồi bất chợt ông nhìn thấy hai chai rượu thuốc cô đặt lên bàn:

- Cô mang rượu đến cho tôi à ?...

- Vâng, đúng như vậy ! Có gì mà ông phải ngạc nhiên ?

Ông mỉm cười:

- Rượu ai ngâm đấy ?

- Em ngâm lấy.

- Cô cũng là dân nghiện rượu hay sao ?

- Không ! Không nghiện nhưng biết uống.

- Vậy sao ?

- Thoạt đầu, không ai nghĩ là đàn bà nên uống rượu. Nhưng bọn em làm thợ quét vôi, hai tay treo lên suốt ngày, đêm về ngủ đau rã rời từ bả vai xuống tận ngang hông. Cô em cắt cho thang thuốc bảo đem ngâm với thứ rượu nếp cái tốt, đêm về uống một chén trước khi ngủ sẽ hết đau. Em làm theo y như vậy, quả nhiên không còn đau nữa, mà ngủ ngon giấc lắm.

Ông im lặng ngẩn ngơ. Suốt cuộc đời ông, đây là lần đầu tiên có người cho ông rượu, mà lại là một cô gái. Hơn bốn mươi năm ròng sống với vợ con, chưa bao giờ bà nghĩ cách mua cho ông một món quà, con cái ông cũng vậy. Trong gia đình ấy, dường như ông phải nghĩ đến tất cả mọi người, lo toan cho cuộc sống của tất thảy mọi người, nhưng không bao giờ có sự quan tâm ngược trở lại. Điều đó được coi là hiển nhiên.:

" Bảo bố anh, ông ấy sẽ giải quyết. "

" Muốn gì cứ bàn với bố. Đâu rồi có đó. "

Bản thân ông cũng coi chuyện đó như là đương nhiên, bởi vì ông là người làm cha, làm chồng, là trụ cột gia đình và ông có trách nhiệm hoàn tất trách nhiệm ấy. Cuộc sống với những phiền toái của nó chất chồng lên vai ông bao nhiêu gánh nặng . Để đảm đương những gánh nặng ấy, ông chẳng còn thời gian nghĩ đến bản thân mình. Giờ, sáu mươi mốt tuổi, ông chợt nhận ra lòng mình xáo động, rằng trong ông còn có một người đàn ông khác, kẻ đó có nhu cầu được chăm chút, thương yêu.

Trong lúc ông đang bần thần vì nghĩ ngợi, cô đã nhìn quanh quẩn rồi nhặt trong bộ đồ trà của quán trọ một chiếc chén sứ, rót đầy:

- Ông nhắp thử mà xem.

Ông đưa chén rượu lên nhắp thử, thấy rượu rất ngon cho dù mùi thuốc đã làm cho hương nếp phai đi nhiều. Cô chăm chú nhìn ông và hỏi:

- Ông thấy thế nào ?

- Tôi thấy rượu ngon. Nhưng giá không có thuốc thì hơn.

- Sao ông dại thế ? Thang thuốc ấy cô em bán đắt gấp mười lần tiền mua một lít rượu đầu nồi.

- Ừ, tôi vốn là kẻ dại khờ mà !...

Ông đáp, chăm chú nhìn lại cô và bỗng cảm thấy người con gái này đã là một phần đời của ông từ lâu lắm, từ những ngày cả cô lẫn ông chưa xuất hiện trên thế gian. Có thể, ông mường tượng một cách hồ nghi, từ những kiếp sống xa xôi thuở trước. Những kiếp sống mà ông không hình dung nổi, giống như người ta không thể nhìn thấy nửa bên kia của vầng trăng nhưng cái nửa bị che khuất ấy vẫn tồn tại. Cũng như vậy những kiếp sống xa xôi lẩn khuất trong các tầng mây cao thẳm của kí ức vẫn tồn tại dù con người không hình dung ra chúng...:

" Thực hay hư, hư hay thực ? Sao bỗng dưng ta thấy cuộc sống thật lạ lùng ? "

Ông tự hỏi, tiếp tục chăm chú nhìn người đàn bà đang đứng cách ông chưa đầy hai thước. Hôm nay, cô cũng mặc áo xanh, chính màu xanh lá dừa mà ông đã thấy khi cô ngồi chen chúc giữa đám đàn bà phụ nề, đánh vữa. Đôi mắt cô đẹp lộng lẫy, bây giờ ông có thể nhìn rõ từng sợi lông mi. Đôi mày dài như hai nét mực tầu, kéo từ chính sơn căn sang hai thái dương, gần như chấm đến chân tóc:

" Cô nàng xinh đẹp thật ! Đúng là người trong tranh ! "

Ông thầm nghĩ và bỗng dưng cảm thấy đau đớn khi nghĩ rằng chỉ chốc lát nữa thôi, cô sẽ ra đi, sau khi để lại cho ông hai chai rượu thuốc lẫn gói quà như một sự đền ơn đáp nghĩa. Ông sẽ không bao giờ gặp lại cô nữa. Rồi cô sẽ sống cuộc đời của cô và cuộc đời ấy chẳng hề liên quan tới ông. Còn ông, chắc chắn sẽ kết thúc tuổi già trong căn nhà trọ này, hoặc trong căn nhà quen thuộc nơi Xóm Tiều Phu, hoặc trên chiếc xe ngựa hành trình giữa hai nơi đó, với những phận sự ngổn ngang và mòn mỏi của gia đình. Với những toan tính, lo âu, dàn xếp giữa một mớ người thân, những kẻ tưởng chừng vô cùng gần gũi với ông nhưng thực chất lại xa lơ xa lắc, những kẻ chỉ quen chồng chất lên vai ông gánh nặng mà không hề nghĩ đến những nông nỗi ông từng trải nếm, những nóng lạnh ông từng chịu đựng, những mật đắng ớt cay ông từng phải nuốt vào trong. Và rồi đây, ông sẽ chẳng thể sống một cách an bình được nữa. Bởi sau cuộc gặp gỡ này, cuộc sống phía trước của ông sẽ trở nên vô cùng ảm đạm. Và ông ?...

Dòng suy nghĩ ấy khiến ông bơ vơ, lạc lõng. Có một nỗi yếu đuối lạ lùng, một nỗi yếu đuối chưa bao giờ biết đến tràn ngập tâm hồn ông làm sống mũi ông cay xè. Hoảng hốt vì sợ mình sẽ khóc trước mặt một người lạ, ông vội vớ lấy bát điếu thuốc lào rít lia lịa hai mồi rõ to rồi ngửa mặt lên thả khói. Những giọt nước mắt lớn trào qua mi lăn xuống hai bên thái dương . Ông dặn ra một cơn ho rồi làu nhàu chửi:

- Thuốc lào quán này là thứ Tiên Lãng đểu.

Còn cô, cô vẫn đứng tần ngần nhìn chén rượu trên tay ông, không ngớt thắc mắc vì sao ông lại chê món rượu thuốc này, chọn thứ rượu trắng rẻ hơn mười lần, ông -người anh hùng đã cứu cô khỏ�i cơn tuyệt vọng ?

Vào chính lúc ấy, chủ quán bước vào nhắc ông rằng bữa cơm của ông đã chuẩn bị xong, rằng ông có cần lấy thêm món ăn mời khách hay không ? Ông chợt nhận ra sự thất thố của mình: Cô đi từ công trường lên đây phải mất hai tiếng rưỡi đồng hồ, và lúc này đã chính ngọ. Ông vội vã bảo:

- Lo cho tôi bữa cơm khách.

Đoạn quay lại cô, ông hỏi:

- Cô có chê dùng bữa với tôi không ?

- Vì sao lại phải chê ?

Cô hỏi lại một cách thật thà. Và ông mỉm cười:

- Vì cô cho tôi là kẻ dại khờ.

- Ồ, đấy là em nói thế.

- Vậy thật sự cô cho tôi là người thế nào ?

- Em cho rằng... rằng ông... rất kháu lão...

Trả lời xong, chính cô lại phá lên cười. Có lẽ vì cô tự thấy câu nói của mình là kì cục. Nụ cười của cô cất đi khối đá đè nặng lên ngực ông. Ông cảm thấy trong tiếng cười ấy, trong ánh mắt tươi cười kia, một lời hứa hẹn... Ông không còn thấy sa mạc cuộc đời trải ra phía trước. Ông không còn thấy bị đe doạ bởi cuộc ra đi của cô. Trong thâm tâm ông thầm hưởng trước món quà tốt lành của định mệnh. Bước khỏi phòng trọ, ông gọi chủ quán rõ to:

- Lo cho tôi một mâm thịnh soạn nhé ! Hôm nay có khách đặc biệt !...

***

Đúng như Quý dự đoán: Vào đêm tất niên, cả Xóm Tiều Phu đến xem " Thị Mầu lên chùa, trừ vợ chồng ông Quảng. Họ không đi vì nhiều lẽ. Trước hết họ đang ở thời kì nóng bỏng ái ân. Cô Ngân còn ở tuổi thanh xuân, ắt hẳn. Nhưng ông Quảng cũng đã nhịn đàn bà gần hai năm, kể từ ngày vợ bị bệnh Ma đói. Cuộc hôn nhân này, với cả đôi là nắng hạn gặp mưa rào. Lẽ thứ hai, họ làm việc dưới tỉnh quanh năm, và ở dưới đó, tuồng chèo, ca nhạc mới, chiếu bóng, các hội thi hát dân gian diễn ra gần như từng tuần, từng tháng, họ không phải nhịn thèm nhịn nhạt như dân Xóm Tiều Phu. Lẽ đương nhiên là thế. Kể ra, việc ấy chẳng động chạm đến ai . Nhưng thói đời, sự chênh lệch nào cũng gợi nên những ganh ghen, dù muốn hay không, dù nói toạc móng heo hay vờ vĩnh che đậy. Ngay từ lúc màn chưa mở, dân làng đã đưa mắt tìm kiếm cặp vợ chồng oái oăm này, sốt sắng như sự hiện diện của họ sẽ làm cho vở chèo thành công hay thất bại:

- Không thấy cả anh lẫn ả !... Chắc họ ở nhà !

- Chắc với lép gì nữa. Họ không thèm xem thứ chèo về xóm. Dưới tỉnh thiếu gì ? Mà dưới đó, rạp hát rộng bằng mấy cái đình làng, màn trướng thuần bằng nhung đỏ, oách lắm.

- Sao cậu Quý không mời đoàn chèo hạng một về cho dân xem?... Đắt thì đắt nhưng cả năm một lần, ai cũng bấm bụng mua được vé.

- Có mời họ cũng chẳng về, đường xá xa xôi gập ghềnh, mà những thứ màn trướng bằng nhung bằng gấm như thế muốn di chuyển phải dùng xe ca loại đặc biệt. Rách một vết phải đền cả đống tiền.

- Thôi, phận đũa mốc thì cứ yên bề đũa mốc, đừng có rửng mỡ đòi màn nhung màn gấm làm gì ?...

- Ông nói ngang như con cặc ! Ai cũng da cũng thịt, ai cũng muốn được được ăn cơm với cá. Có đồ điên mới từ chối của ngon vật lạ.

- Chính ông mới là thằng nói ngang như con cặc! Muốn nhưng lại đéo có tiền. Thèm của ngon nhưng túi lại rỗng ! Đã thế thì im đi, nói ra làm gì cho thêm hổ thẹn ?

- Thôi, tôi xin các ông, đêm nay là đêm tất niên, chớ có sinh sự. Cuộc vui sắp bắt đầu lại cãi nhau thì còn nghĩa lý gì nữa ?

Người ta can nhau. Các bà dấm dúi cấu véo các ông chồng để họ nguôi đi cơn bốc hoả. Rồi tiếng trống nổi lên rộn ràng mời gọi. Hai tấm màn lụa , tuy đã lỗ chỗ thủng vì gián nhấm nhưng vẫn còn giữ được màu đỏ hoa mẫu đơn, từ từ mở ra và cô đào váy áo xênh xang như làn gió ngũ sắc lướt trên sân khấu:

" Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba, thấy sư mười bốn vãi già mười lăm..."

Dàn nhạc sau cánh gà rộn lên tiếng đế. Một cây sáo lảnh lót vút lên trên tiếng nhị, tiếng sáo và tiếng trống đệm nhịp. Khuôn mặt tươi cười của cuộc sống khiến cho người ta tạm quên đi những dồn nén và những cơn xung động.

Sau hơn hai giờ, muốn hay không tích chèo cũng kết thúc.

Dân làng đứng ngẩn ngơ hồi lâu trước sân khấu, tiếc nuối. Cuộc vui thật nhanh tàn. Và sau cuộc vui bao giờ cũng là nỗi buồn thường trực. Khi đám diễn viên đã thay trang phục, dỡ sân khấu, gấp lại mớ phông màn để chuyển lên chiếc xe tải nằm chờ sẵn phía sau, đồng hồ mới chỉ tám giờ. Còn những bốn tiếng nữa mới đến giao thừa. Còn những bốn tiếng nữa mới được nổ pháo, hạ cỗ. Còn những bốn tiếng nữa phải chịu đựng thứ im lặng trường niên nơi sơn khuê heo hút, sau khi được tẩm đẫm trong không gian đầy ắp ánh sáng, mầu sắc, hình ảnh và âm thanh của vở chèo, quả là rất nặng nề, quả là rất đỗi khó khăn. Người ta đứng xem cảnh thu dọn cuối cùng của đội văn công, nhìn chiếc máy nổ hai mươi lăm ngựa chạy ầm ầm toả ánh điện lên màn trời đen kịt. Bỗng nhiên, nỗi luyến tiếc dâng đầy tâm hồn. Bỗng nhiên, sự cảm nhận mơ hồ về một nỗi thiếu hụt, mất mát khiến con tim khắc khoải. Người ta biết chắc chắn chẳng có gì mới chờ đợi họ ở cuối đường, nơi bóng tối đêm đông hoà cùng mầu đen của rừng cây bóng núi, nơi lát nữa, họ sẽ tìm về dưới ánh lửa bập bùng của cây đuốc dầu hoả hay ánh lập loè của ngọn đèn pin. Nơi ấy, là cuộc sống cũ mòn như tấm vải đã trơ lõi sợi...

Trong lúc đám đông còn tần ngần, Quý đã lo xong các khoản thù lao cho đội văn công huyện. Anh ta bảo Vui:

- Bây giờ, tôi phải lo dẫn đội chèo đi ăn cháo gà trước khi họ quay về huyện. Dân làng còn đứng đầy bãi chưa muốn đi. Có tiện thì cô mời bà con đến chơi trước giao thừa. Năm có một lần, cũng phải tạo cho mọi người một đêm ấm cúng.

- Có ngay thôi, chẳng khó với em. Nhưng lát nữa anh đến chứ ?

- Có thể...

Quý đáp nước đôi:

- Tôi sẽ đến nếu mọi việc xong xuôi.

- Thôi được, anh cứ lo phận sự của anh.

Cô Vui trả lời. Đoạn cô đi tới trước đám đông, lên tiếng:

- Bà con chưa thích về xin mời đến nhà tôi uống nước chè, ăn mứt Tết... Đợi giao thừa, quay về tự xông nhà cho chắc ăn !

- Hoan hô, được thế thì cô là người sang nhất hạng !

- Mứt nhà cô tự làm hay mua dưới phố ?

Mứt xịn dưới phố. Hạt dưa, hạt bí cũng là hàng cấp một, xin đảm bảo chất lượng . Còn chè mạn thơm, chính hiệu Hồng Đào.

- Ai đến nhà cô Vui với tôi nào ?

- Chẳng phải rao ! Người nào có chân, người ấy tự biết đi !...

Không ai nói ra, nhưng người ta ngầm hiểu rằng cuộc tụ tập ở nhà cô Vui chính là màn hai của đêm tất niên, sau tích chèo "Thị Mầu lên chùa", ắt là tình sử của cặp vợ chồng chênh lệch. Bởi họ giàu nhất làng, bởi họ sống một cuộc sống khác biệt với đám đông, nên chắc chắn họ phải biến thành con mồi cho những cuộc đàm tiếu. Đàm tiếu, xưa nay vốn là thứ món ăn tinh thần gần như duy nhất nơi làng xóm, và là thứ độc dược kinh niên ngấm vào xương tuỷ chúng sinh.

Đêm ấy, nhà cô bí thư chi đoàn thắp đèn măng-xông.

Cô sắm cây đèn này từ khi cô ý thức rằng cô đã trở nên có vai có vế, nghĩa là từ khi cô nổi lên trong xã như một bậc Mạnh thường Quân, dù đối với ông Quảng cô cũng chỉ tương tự như võ sĩ lông gà lông vịt so với hạng gấu, hạng voi... Tuy nhiên, đó vẫn là niềm tự hào mà không mấy người đàn bà được quyền nếm trải... Thêm nữa; cô thầm nghĩ rằng mọi thành công của cô đều do cha cô phù trợ nên cô muốn cho ông ở dưới suối vàng được hãnh diện. Như vậy khắp Xóm Tiều Phu, sau ông Quảng giờ cô là người thứ hai có máy nổ bốn ngựa, có đèn măng-xông, những đồ vật được coi là biểu tượng của cuộc sống thịnh vượng. Với người dân vùng này, sau nhà cao sân lớn ắt đến xe ngựa, vừa là thứ tài sản vừa là phương tiện kiếm tiền. Sau xe ngựa ; có máy nổ gia đình để tưới vườn ruộng, và cây đèn măng-xông để thắp sáng tưng bừng trong những dịp lễ tết là niềm ước mơ tột đỉnh. Tết năm nay, cô Vui lại mua thêm được ba bộ ấm chén sứ Hải Dương loại một với chiếc bình pha trà cỡ đại quai đồng. Cô đem ra pha trà thết khách. Chiếc bình đại chứa hai lít nước, mỗi lần pha hết nửa gói Hồng Đào. Dân làng chỉ nhìn thôi cũng đã khiếp. Ở thôn quê, người ta vốn có thói hà tiện. Một gói trà Hồng Đào, với những nhà bình thường, uống dè sẻn ít nhất cũng mươi hôm.

Như thế là, dưới ánh sáng trắng rực của ngọn đèn măng-xông, chén tách sứ mới lóng lánh, trà thơm ngào ngạt bốc hơi, đĩa lớn đĩa nhỏ đựng mứt sen, hạt bí, hạt dưa, và các loại bánh kẹo. Tất cả được bày kín mặt hai chiếc bàn lớn kê sát nhau, trên phủ khăn hoa như bàn đám cưới. Một không khí nồng ấm, hội hè bao phủ khắp hai gian nhà, nơi người làng ngồi túm tụm nhau theo xóm hoặc theo dây mơ rễ má họ hàng. Không khí ấy khiến con người tự nhiên hào hứng và cởi mở. Người ta chuyện trò như pháo ran, từ chuyện cô con dâu nhà bà Côi ở xóm Thượng đẻ sinh ba đến chuyện con nghé nhà lão Tự say ở thôn Hạ bị cố ý đánh què để ngả ra thịt. Từ chuyện cô diễn viên đóng vai Thị Mầu có cặp vú lép đến nỗi mỗi khi cô ta cử động thì những miếng mút đệm trong su-chiêng trồi lên trụt xuống trông đến là buồn cười, đến chuyện con gái ông Huân ở xã bên chửa ngoài dạ con đem xuống bệnh viện tỉnh, tốn một tạ tiền cũng không cứu được thai... v... v...

Rồi một ông bỗng lớn tiếng gọi:

- Bà chủ ơi, tôi vốn có thói xấu là bụng cao dạ dốc... Chẳng hay có thể kiếm được miếng bánh hay khúc giò ở đây không ?

Cô chủ đứng lên:

- Có ngay...

Nhưng vợ ông ta lên tiếng trấn áp:

- Nhà ông này rõ vô duyên, không nhịn được đến giao thừa hay sao ?

Ông chồng vặc lại:

- Việc gì phải nhịn ? Đói ngày giỗ cha no ba ngày tết. Chỗ láng giềng, cô ấy lại có bụng mời.

Bà vợ phân bua:

- Miếng ăn chẳng to, nhưng người ta lại phải đụng vào dao vào thớt, lại phải dọn dẹp, rửa tay. Trời rét thế này !...

Đến đó, làng xóm ùn ùn hùn vào:

- Kệ ông ấy. Đói thì làm sao mà ngồi uống nước chè ăn bánh kẹo như mấy bà cho được ?

- Đúng đấy ! Tôi tán thành. Cô Vui ơi, cho tôi chén rượu. Lũ đàn ông cứ phải có chén rượu mới xôm trò được. Các cụ dạy: Phi tửu bất thành lễ. Tôi xin phép nói trại đi: Phi tửu bất thành đêm tất niên. Ai tán thành ý kiến của tôi ?

- Tôi.

- Tôi cũng vậy.

- Tôi nữa !

- Cả tôi nữa, cô chủ ạ...

- Được thôi, không có gì khó khăn. Nhưng trong đám các bà, ai sẵn lòng đứng lên giúp tôi một tay nhỉ ?

- Vâng, có tôi đây ! Tôi đã trót lấy một cục nợ thành ra phải đèo bòng.

Đấy là giọng bà vợ có ông chồng háu ăn đòi cỗ mặn trước tiên. Đương nhiên, sau lượt bà ấy là ba bà khác, phu nhân của các đức lang quân chủ trương:phi tửu bất thành đàn ông. Một thứ lo-gic ngầm ẩn chỉ định họ phải đứng lên , gánh bớt những phiền nhiễu cho gia chủ.Và, như thế, một phần đêm tiệc trà đã biến thành cỗ mặn với đầy đủ giò, rượu, bánh chưng, măng nấu sườn, thịt kho và hành muối. Tuy là một thứ cỗ tuỳ hứng, chỉ được chuẩn bị trong vòng mười lăm phút, nhưng cũng đủ món cho các ông nâng đũa lên hạ đũa xuống một cách sung sướng.

Khi hai mâm cỗ đầy, mỗi mâm kèm theo hai chai rượu lớn được bưng lên và đặt trên hai chiếc phản lớn kê đối diện nhau thì cánh đàn ông háo hức sà xuống . Mỗi cỗ sáu người, vị chi mười hai người. Cô chủ kê một chiếc ghế chính ở lối đi giữa hai tấm phản để cùng một lúc có thể tiếp rượu cả hai bên:

- Các bà tự pha trà, thỉnh mứt nhé. Tôi đành phải hầu chuyện đám các ông vậy.

Cô chủ tuyên bố.

Các bà nhao nhao đáp:

- Cứ tiếp họ, chẳng phải lo cho chúng tôi.

Nói thế thôi nhưng các bà cũng bưng bánh kẹo, trà nước tới chầu rìa sau lưng đám đàn ông để hóng chuyện. Người ta không quên rằng, đấy mới chính là phần cốt lõi nhất của buổi tối hôm nay, sau tích hát chèo.

***

Làng Khoai là làng nghèo nhất xã Hưng Mỹ.

Tỉnh Hà Tây khá rộng, nhưng sự phân bố ruộng đất cũng như nghề nghiệp giữa các vùng vô cùng chênh lệch. Người giàu nhất làng Sơn nam cũng chỉ ngang với kẻ cùng đinh ở làng Nam lộc, tuy hai làng cách nhau chưa đầy mười lăm cây số. Cứ như thế mà so sánh, làng Khoai ắt hẳn là làng nghèo nhất trong đám các làng nghèo. Cái tên làng Khoai chỉ ra rằng từ xửa từ xưa, dân ở đây làm quen với khoai hơn là với gạo và các thứ thực phẩm khác. Đương nhiên dạ dầy họ phải thích ứng để quanh năm xơi các loại khoai luộc, khoai nướng, khoai nấu độn cơm, cả thứ khoai Vàng Anh bở tung như đỗ xanh đồ lẫn khoai mật nghệ trong suốt như thạch, cả thứ khoai ngọt như mía lùi được gọi là khoai Hoàng hậu, đến thứ khoai tăng sản được dặm vào cuối mùa, vỏ trắng ruột cũng trắng nhạt như nước ốc, thường gọi là khoai Trung-Hoà ; cả khoai lang lẫn khoai sọ, khoai môn.

Thế nhưng đời nào cũng vậy, làng Khoai đều có mỹ nhân. Đấy là niềm tự hào duy nhất của dân sở tại. Đấy cũng là niềm an ủi duy nhất để bù lại sự khắc nghiệt của số phận mà họ phải chịu đựng từ thế hệ này qua thế hệ khác. Con gái làng Khoai dù chẳng là mỹ nhân cũng có nước da trắng muốt . Dù họ dãi dầu ngoài ruộng bãi cũng chỉ hai bàn tay bị mặt trời làm đen đi chút đỉnh nhưng so với đàn bà con gái tất thảy mọi làng, da họ trắng và đẹp một cách lạ kì. Người ta cho rằng làng Khoai nửa cận sông, nửa gần núi, khí trời thanh thoáng khiến cho da dẻ đàn bà con gái tươi nhuận quanh năm. Thứ nữa, mắt họ từa tựa như mắt đàn bà Chàm, mênh mông thăm thẳm, với những cặp mi dài ngút ngát, cong veo. Người ta nhắc rằng thời trước, có một toán tù binh Chàm bị đầy về tận đây để khai đất khẩn hoang cho một tướng công được triều đình phong tước. Toán tù binh này ăn chung ở lộn với đám dân sở tại, rồi vì họ có tay nghề thợ mộc thợ nề giỏi, mang lại nhiều lợi tức cho vị tướng mà họ được phép dựng vợ gả chồng với các gia nhân. Hậu duệ của những cặp vợ chồng này vì thế có những cặp mắt lớn, trong vẻo trong veo mà lại buồn như cảnh tàn thu vậy. Tóm lại, nhan sắc con gái làng Khoai đã trở thành truyền thuyết từ bao nhiêu đời, làm nức lòng đám con trai các vùng lân cận và gây nên mối hiềm khích với các cô gái khác làng, khác xã. Người làng Khoai có thể kể vanh vách thời Trần triều bà nào được tuyển vào làm chánh hậu, đời Hậu Lê ai được kết duyên với quan tể tướng, đời Minh Mạng ai được tuyển vào làm ái thiếp, đời Tự Đức ai được làm thứ phi... Cho tới thời cách mạng này, cũng có bà Lan lấy được ông bí thư tỉnh uỷ Ninh Bình, còn cô Nga được tuyển vào đoàn văn công tổng cục chính trị, nay đi Liên-xô, mai đi Tiệp-khắc như cơm bữa...

Cô Ngân sinh ra trong một làng nghèo với bao nhiêu niềm tự hào về dung nhan của các ái nữ. Mẹ cô đã từng là cô gái xinh đẹp nhất huyện nhưng chưa kịp được một vị quan tỉnh hay vị nha lại đầu huyện dòm ngó đã phải lòng bố cô, anh giáo làng. Anh giáo quèn lại lớn lên trong một gia đình nghèo rớt mùng tơi giữa một làng nghèo, nhưng vì là đứa con duy nhất nên cả cha lẫn mẹ đều thắt lưng buộc bụng cho anh học đủ chữ để trở thành giáo viên cấp một. Như thế, anh giáo quèn vô cùng biết ơn vợ vì cô đã lấy anh, chứ không vào đoàn văn công quân khu hay chờ đợi một vị hôn phu sang giàu nào khác. Từ thuở nhỏ cho đến khi trở thành thiếu nữ, có đến cả ngàn lần Ngân được nghe bố kể:

" Mẹ con đã được tuyển vào đoàn văn công quân khu tả ngạn rồi đấy. Có kém cạnh ai đâu. Chẳng qua bố tốt số nên lấy được mẹ thôi !"

Khi cô lớn lên, nhan sắc còn đậm đà hơn mẹ. Bố cô vừa dạy học, vừa đánh dậm hoặc đan cói vào buổi tối để cô đủ tiền theo học cho đến hết cấp hai. Ông nuôi một niềm ước mơ không che đậy:

" Con xinh đẹp hơn cả mẹ con ngày trước. Con lại được học hành. Sau này nhất định con còn sung sướng hơn cô Nga xóm Mới, nay cưỡi máy bay mai lên tầu thuỷ vượt biển khơi..."

Như vậy, tương lai cô gần như đã được định sẵn, giống như một bức hoạ đã được phác thảo kĩ lưỡng, chỉ chờ ngày hoạ sĩ đủ cảm hứng để phết lên đó những nhát sơn dầu: Cô sẽ được tuyển vào đoàn văn công trung ương hoặc đoàn văn công tổng cục chính trị, sẽ đi Liên xô, Trung quốc và hàng trăm nước khác như cơm bữa, làm vinh hiển cho toàn gia !

Nhưng trong lúc cả ông bố lẫn bà mẹ đang còn bận lo toan nuôi hai đứa con trai và đinh ninh trong dạ rằng Ngân sẽ thực hiện đúng chương trình của họ thì cô đã lớn. Tuy mới mười sáu tuổi, nhưng nhan sắc lộng lẫy của cô quyến rũ không biết bao nhiêu bạn đồng môn, và không ít các anh giáo trẻ trong trường cấp hai của huyện. Tựa ngọn đèn bắt sâu ban đêm giữa cánh đồng, mời gọi lũ bướm đêm bay tới, múa lượn, say sưa mà chết thiêu chết rụi ; vẻ tươi cười nhí nhảnh của Ngân khiến cho bao nhiêu bạn học bị kỉ luật, bởi nhà trường cấm học sinh được tự do yêu đương khi chưa tới tuổi thành niên. Tuổi thành niên, theo quy định luật pháp, là mười tám. Nhưng sau khi đã thiêu chết hằng hà sa số bướm đêm, ngọn lửa đèn ắt phải tắt. Vì một lẽ nào đấy, vì lũ bướm tội nghiệp kia chất chồng khiến nó thiếu ô-xy, vì cạn dầu, vì gió thổi ? Cũng như vậy, sau khi đã chứng kiến bao nhiêu chàng trai ngã ngựa vì mình, đến lượt chính Ngân bị đánh gục, không phải với những gã trai khờ khạo đồng lứa, nhưng bởi ông giáo dạy văn, người mực thước, một vợ ba con. Ông giáo Tường.

Không ai biết đầu cuối tình sử của họ. Bởi ông giáo Tường sống với vợ con ngay trong khu gia đình giáo viên trường huyện. Một dãy nhà lợp ngói chạy dài với hàng hiên hẹp, chia thành từng lô nhỏ, giống nhau cả về hình dáng lẫn chất liệu, được xây cất một cách tùng tiệm và ẩu tả, trông hệt như một dãy hộp các-tông. Trước khu nhà đó là khoảng đất trống với dăm cây bàng, được dùng làm sân chơi bóng chuyền, bóng rổ của giáo viên lẫn học sinh. Sau khu nhà ấy là vườn tăng gia của các giáo viên giúp cho họ cải thiện đời sống vì đồng lương không bao giờ đủ, nhất là với những ai đã có gia đình. Người ta vẫn thấy ông giáo Tường cầm ô-doa tưới su hào bắp cải vào các buổi chiều, vẫn thấy vợ ông quần ống thấp ống cao te tái lùa gà vào chuồng lúc nhọ mặt người hoặc vẫn thấy chị ta cầm đèn pin đi nhặt trứng lúc gần nửa đêm. Đấy là một người đàn bà nhỏ bé, gầy nhẳng, vẻ buồn rầu không lúc nào thiếu vắng trên gương mặt nhọn như mặt chim. Họ đã sống trong khu tập thể ấy từ khi mới cưới nhau, anh Tường được bổ nhiệm về trường huyện sau khi tốt nghiệp sư phạm trung cấp tỉnh, còn chị vợ bán thuốc trong cửa hàng dược phẩm. Từ bấy đến nay họ đã có ba đứa con trai, đứa lớn nhất mười ba tuổi, đứa thứ hai mười một, đứa út, chắc là vỡ kế hoạch nên mới lên ba. Trong tình cảnh như vậy, không ai tưởng tượng nổi có một mối tình lãng mạn, say đắm nảy nở giữa một cô thiếu nữ mười sáu, đẹp lồng lộng như trăng rằm, với một ông giáo sắp sửa tứ tuần, râu một ngày quên cạo thì mặt tối như hũ nút, áo quần cũ nát, răng lẫn ngón tay ám thuốc lá vàng khè.

Khi mọi chuyện vỡ lở, nghĩa là khi Ngân có thai, thiên hạ gần như cuồng lên vì sửng sốt. Đám học sinh đã đành. Nhưng những người lớn, giáo viên, cán bộ huyện, công nhân các nhà máy trung ương đóng trong vùng, và cả dân thường... tất cả đều muốn biết căn nguyên một mối tình phi lý hoàn toàn, theo ý họ. Chuyện thầy trò yêu đương lan khắp nơi cùng chốn, ào ào như lửa bỏng, nước sôi:

- Quỷ ám, đích thị là quỷ ám !

- Làm chó gì có quỷ, chuyện dị đoan. Tôi cho rằng thằng cha này dẻo mồm tán. Người ta bảo:đàn ông yêu bằng mắt ; đàn bà yêu bằng tai.

- Mắt với tai thì cũng phải có lý. Đời thuở nhà ai con bé lại tự nguyện yêu một lão bằng tuổi bố nó bao giờ ? Hoạ là điên ! Nếu không điên, ắt hẳn thằng cha này bỏ bùa yêu cho nó. Trước đây, em họ tôi đi dân công trên Tây bắc, bị một đứa con gái Thái đen bỏ bùa yêu. Cứ mỗi lần tìm cách quay về đồng bằng là lên cơn điên, mắt trợn trừng, mồm lảm nhảm nói toàn tiếng Thái. Gia đình đành phải đưa lên sống với đứa con gái kia.

- Cho đến tận bây giờ ?

- Chính thế. Con vợ nó chờ đến năm năm rồi cũng phải xin xã làm thủ tục ly dị để đi lấy chồng. Hai đứa con gửi cho chú thím tôi nuôi.

- Tôi không tin chuyện bỏ bùa yêu.

- Tôi tin.

- Tôi cho rằng lão giáo này có thuật chài đàn bà con gái mà chúng ta không biết được.

- Thuật gì ?

- Thôi miên chẳng hạn. Thằng cha này trông hom hem thế nhưng khi nó nhìn ai, người ta cứ như bị đóng đinh câu rút, không động cựa nổi. Tôi cho là con bé bị cặp mắt nó hút hồn.

- Có thể ! Nhưng nếu thế sao từ trước tới nay nó không chài những đứa khác ? Khoá học nào chẳng có vài cô xinh ?

- Đúng vậy. Từ trước đến nay ông ta có chuyện trăng gió nào đâu ? Nếu là kẻ chuyên mồi chài ong bướm hẳn mọi sự đã phải xảy ra từ lâu. Mười lăm năm qua, thiếu gì học trò đẹp, tại sao phải chờ đến lượt con Ngân ?

- Vì số mạng định thế. Đến ngày đến tháng, cái thai mới chui ra khỏi bụng mẹ. Cũng như vậy, đến ngày đến tháng, tai hoạ mới hiện hình.

- Ông cho thế là tai hoạ à ? Tôi lại cho là phúc cơ đấy. Đương nhiên, được ngủ với một đứa con gái còn trinh tiết, lại xinh đẹp như tiên. Chẳng khác chi được bước vào thiên đường.

- Nhưng sau thiên đường là địa ngục. Mọi người chưa biết chuyện bố con Ngân lồng lộn kiện nhà trường, vác dao đòi giết lão giáo Tường. LãoTường phải trốn lên tỉnh. Bây giờ, nghe đâu đã nhận kỉ luật chuyển đi nơi khác.

- Chuyển đi đâu ?

- Tôi không nhớ rõ nhưng chắc chắn là một tỉnh biên giới. Trên đó, ông ta bị phân công tới một nơi khỉ ho cò gáy, dạy đám tân binh trong trường đào tạo hạ sĩ quan. Các trường đào tạo sĩ quan cao cấp thường ở gần thành phố lớn, nhưng các trường đào tạo hạ sĩ quan bao giờ cũng bị tống vào những miền chó ăn đá, gà ăn sỏi. Ở những nơi ấy, ngọn rau muống cũng hiếm. Thức ăn đầu bảng quanh năm là cá khô với mắm tôm.

- Đáng kiếp thằng dê già. Luật nhân quả chẳng bao giờ sai. Đã hưởng lộc trinh tiết, đã nếm da thịt con gái trắng như trứng gà bóc thì sau đó mãn kiếp mút cá mắm khô cũng là phải.

- Địa vị tôi là bố con bé Ngân, tôi cũng vác dao cho thằng cha này một nhát. Hết một đời con gái. Uổng một kiếp giai nhân !

- Ông cho nó một nhát thì ông cũng phải ngồi bóc lịch trong tù. Mà đã dan díu nhau ắt hẳn phải tự cả đôi bên, cả anh lẫn ả... can cớ chi đâm chém người ta ?

- Ông ngu thật. Theo luật, mười tám tuổi mới thành niên. Con cái Ngân mới mười sáu... Ngủ với nó tức là thằng cha kia phạm luật. Tội ấy gọi đích danh là: Quyến rũ trẻ vị thành niên. Đáng lẽ nó phải bị truy tố và tù ngồi ít nhất bốn năm. Nhưng bác ruột nó là chánh án toà án tỉnh.Vì lẽ ấy mới thoát được cửa tù.

- Ra thế, tôi không biết.

- Ông không đọc luật à ?

- Thời giờ đâu mà đọc luật. Ngày làm hai ca, có khi ba ca thông tầm. Tuần làm sáu buổi, có khi chủ nhật còn phải lao động công ích xã hội chủ nghĩa. Về đến nhà chỉ muốn lăn ra ngủ. Trèo lên bụng vợ còn lười huống chi ngồi đọc luật ?

- Thế con gái ông lên mấy rồi ?

- Mười hai.

- Vậy thì hãy lo đọc luật từ bây giờ. Có ngủ chỉ nên nhắm một mắt, mắt kia phải mở mà ngó nghiêng, mà liếc ngang liếc dọc. Nếu không lại có thằng cha nào bằng tuổi ông nó ngấp nghé gọi ông là bố vợ bây giờ.

- Đồ đểu ! Tại sao ông độc mồm độc miệng thế ? Ông cầu cho tôi khốn nạn như lão giáo làng Khoai hay sao ?

- Tôi không cầu cho ông khốn khổ như vậy. Nhưng biết lo xa thì tránh được cái hoạ gần.

Quả tình, tất cả những gia đình có con gái tuổi dậy thì đều nháo nhác sau câu chuyện tình oái oăm trên. Người ta hiểu được nỗi đau đớn của ông giáo làng Khoai. Vì sao một con người hiền lành nhu thuận như thế lại vác dao lên huyện giữa thanh thiên bạch nhật. Ông giáo Tường chỉ kém bố cô Ngân hai tuổi, nhưng vì mắt sâu, râu rậm nên trông mã còn có vẻ già hơn. Giá như ông ta là đại gia đại phú, hoặc là quan lớn đầu tỉnh hoặc bậc lương đống triều đình, người ta còn có thể châm chước. Nhưng đằng này, ông giáo dạy văn trường huyện lại là kẻ "trên răng dưới dái", mà đã thế lại là dái già... nên thiên hạ bất khoan dung.

Lúc ấy, cái thai trong bụng cô Ngân đã sang tháng thứ tư ; kể thì cũng khá muộn nhưng nhà trường vẫn cho giấy giới thiệu vào bệnh viện huyện xin " nạo thai cho nữ sinh vì lý do tai nạn đạo đức ". Mẹ Ngân đưa con gái nhập viện buổi tối, cả hai đều lấy khăn bịt mặt chỉ để hở hai con mắt, nón đội sụp xuống ngang mày. Bố Ngân tuyên bố từ con gái. Ông giáo làng bảo vợ:

" Giá nó cầm dao đâm thẳng vào tim tôi còn hơn là nó đẩy tôi vào tình cảnh này. Kể từ nay, dưới mái nhà này có nó thì chẳng có tôi, và ngược lại. Tuỳ mình chọn..."

Vợ ông không dám chọn, bởi bên chồng bên con đều là máu thịt cả. Đưa Ngân vào viện nạo thai xong, bà giáo dẫn con về gửi mẹ. Ở đó, Ngân sống với cậu mợ và bà ngoại. Hơn một năm sau, cậu Ngân vốn là thợ nề tay nghề cao xin cho cô chân thợ quét vôi dưới công trường. Còn ông giáo Tường, không nghe thấy tin tức gì nữa. Có tới một năm ròng, người ta thấy vợ ông, người đàn bà teo tóp như cây rau cải phơi nắng vẫn bán thuốc trong cửa hàng phố huyện. Gương mặt vốn dĩ nhọn như mặt chim nay càng quắt lại, trơ cả xương hai gò má lẫn xương sống mũi. Qua tết, không còn thấy chị ta trong cửa hàng dược phẩm huyện. Bốn mẹ con nghe đâu dắt díu nhau về tỉnh Thanh, quê ngoại. Gian nhà của ông giáo Tường khoá cửa một vài tháng rồi được phân cho giáo viên thể dục mới về.

***

Khi ông Quảng và cô Ngân quyết tâm gắn bó keo sơn, họ tính chuyện hợp lý hoá cuộc sống đôi lứa. Trong tình cảnh gia đình như vậy, cô Ngân không muốn cưới xin linh đình theo cách của mọi người. Trước hết, cô không muốn khuấy lại dòng nước đã lắng. Vết thương cũ của ông giáo làng chắc chắn chưa lành, nếu cơn cớ chi chạm tới, ắt máu lại ròng ròng chảy. Người làng vẫn nhắc lại cảnh bố Ngân bỏ lên lớp, bỏ ruộng cày cả tháng, băm nát mớ đồ nghề đánh dậm, chũm cá sông. Đêm đêm, ông giáo đi như cuồng cẳng trên đường làng, chốc chốc lại ngửa cổ lên tru như chó sói gọi đàn khiến chủ tịch xã là cậu ruột, phải bỏ tiền mời bác sĩ tỉnh về tiêm. Ai cũng ngỡ ông ta sẽ khăn gói vào nhà thương điên, không chóng thì chầy. May phúc đức tổ tiên, và cũng nhờ tay nghề bác sĩ tỉnh mà ông ta đã hoàn hồn, tuy thi thoảng vẫn có những cử chỉ hoặc những câu nói không thật sáng suốt. Cô con gái chính là toàn bộ giấc mơ vinh quang của người cha. Giấc mơ ấy tan tành như chiếc gương bị đập vụn. Ông giáo làng không muốn chấp nhận sự thực đau lòng ấy. Ông tìm cách tẩy xoá mọi dấu vết của thời mơ mộng cũ. Tất thảy những gì liên quan đến Ngân đều bị ông đem đốt hoặc trôi sông. Những tấm ảnh xinh đẹp treo đầy tường. Hòm quần áo. Rổ đồ khâu khi cô học nữ công gia chánh. Những con búp-bê vải cô tự khâu. Những quyển vở chi chít điểm son từ khi cô còn học cấp một. Tất thảy những kỉ niệm của một niềm tự hào quá lớn chung sống với một giấc mơ ban ngày kéo quá dài.

Ông Quảng đã từng làm cha. Ông hiểu lòng tự ái tổn thương sẽ xô đẩy con người vào thứ địa ngục nào. Những năm tháng lăn lộn trên đủ miền đất, rong ruổi trên mọi nẻo đường dậy cho ông biết cảm thông và nhẫn nhịn. Hạnh phúc của ông ắt sẽ đòi thử thách. Chính ông là người gánh vác chứ không phải Ngân. Sau khi tính đi tính lại, họ quyết định nhờ người cậu Ngân mời mẹ cô xuống công trường chơi. Ở đó, đêm thứ nhất bà mẹ được nghe cô con gái kể lại tình sử của cô với một người đàn ông hơn cô bốn mươi ba tuổi, bậc Từ Hải tái sinh đã dang tay che chở cứu cô thoát khỏi kẻ hung đồ. Ngày thứ hai, cô đưa mẹ đi chơi phố, sắm sanh cho gia đình tất thảy những gì làm cho con mắt mọi người có thể sáng rực lên như đèn điện. Ngày thứ ba, mới là bữa cơm chính thức giữa bà mẹ vợ và chàng rể tương lai hơn bà hai mươi bốn tuổi. Có một sự trùng hợp khiến cho cả hai bên đều không tránh được ngượng ngùng: bố của Ngân sinh cùng tháng cùng năm với Quý, con trai đầu ông Quảng, họ chỉ khác biệt nhau về ngày sinh.

Tuy nhiên, mẹ Ngân là người thực tiễn. Bà hiểu rằng con gái mình đã lỡ trớn không thể nào tìm lại được cơ hội cũ. Như con thuyền bị lũ cuốn xuôi chẳng thể quay ngược dòng. Nếu cô cảm thấy sung sướng với những người đàn ông hơn cô nhiều tuổi chắc chắn vì số mạng của cô đã định sẵn một lối kết duyên trái khoáy, ngược đời như vậy. Không ai chống lại được luật trời. Từ ông giáo Tường đến ông Quảng, đường đời của cô đã vạch sẵn theo những đường chỉ kẻ trên lòng bàn tay. Bà thở dài, nhưng bà chấp thuận tất thảy những gì không thể thay đổi được. Thêm nữa, đối với người làng Khoai, vật chất có giá trị mạnh mẽ. Người chồng tương lai của Ngân sẽ đem lại cho cô một đời sống vật chất tối đa. Và đó là sự bù trả của định mệnh.

Ngày thứ tư, bà mẹ khệ nệ xách hai chiếc hòm quay về làng . Bà không nói gì với ông giáo về cuộc gặp gỡ cô con, chỉ lẳng lặng thu dọn đồ đạc và dáo dác:

- Ít bữa nữa thế nào cậu cháu cái Ngân cũng gửi thợ về làm nhà. Dưới đó, nó dành dụm được ối tiền.

- Tôi đã bảo mình là đừng bao giờ nhắc lại tên nó trước mặt tôi.

- A, tôi quên. Vậy từ giờ tôi chỉ nhắc tới cậu nó. Tháng tới cậu ấy sẽ giúp chúng ta sửa nhà.

- Làm gì tuỳ ý. Nhà này quyền ở mình từ xưa đến nay.

Ông giáo đáp chủng chẳng rồi chắp tay sau đít đi ra ngõ.

Hai tuần sau, em bà giáo dẫn một tốp thợ tám người về làng Khoai. Kèm theo họ là ba xe tải chở gỗ, gạch, xi-măng lẫn các phụ liệu khác. Dân làng xúm lại xem như đêm rằm tháng tám trẻ con xem đèn kéo quân.

Làng Khoai chưa từng có một mái ngói. Cả làng thuần một kiểu nhà lợp rơm hoặc lá cọ, tường xây bằng đủ loại chum vại sành, tiểu sành hư hỏng, mua ở làng bên. Làng láng giềng là Quách Thổ, một làng bề thế với trên bốn ngàn dân, giàu có từ nhiều đời đổ lại . Họ giàu vì họ không làm ruộng mà chỉ chuyên làm đồ sành. Đất vùng Quách Thổ là thứ đất sét tuyệt hảo để chế tác các loại vật dụng bằng sành , trước hết là tiểu. Tiểu lại là mặt hàng đời đời kiếp kiếp cần thiết cho chúng sinh. Dù giàu hay nghèo, bất luận muốn hay không muốn, nhà nào cũng có người chết, qua ba bốn năm phải rửa xương cốt cho vào tiểu sành chôn lại lần thứ hai. Lần này mới thực là lần hoàn tất thủ tục ma chay, và như thế chiếc tiểu sành được coi như nơi trú ngụ cuối cùng của vong linh, ngôi nhà vĩnh cửu nếu vong linh đó không có cơ may đi đầu thai lại. Bởi thế, tiểu sành là thứ mặt hàng bắt buộc phải tiêu dùng đối vớ tất thảy dân cư. Nghề làm tiểu sành được coi như thứ nghề danh giá nhất trong vùng. Người ta không cho phép kẻ ngoại nhân được học nghề ấy. Con gái con trai làng Quách Thổ buộc phải kết hôn nội trong ba dòng họ thống lĩnh nghề này. Nếu kẻ nào dám mạo muội vượt qua lề luật, buộc phải đi biệt xứ, hoặc vào Nam kì, hoặc ngược lên biên giới phương Bắc. Nếu quanh quẩn trong vùng châu thổ sông Hồng, thế nào cũng bị phát hiện và rượt đuổi. Còn trường hợp hãn hữu, những kẻ bạo phổi to gan dám mở lò nung tiểu sành hay chum vại theo nghề cũ ; ắt phải liệu thân ; cuối mọi ngả đường đều có kẻ rình đánh cho tàn tật. Vì lý do ấy, cả vùng nhìn dân làng này như nhìn những kẻ thù bất dung thứ, vừa là lũ giàu sang ngạo ngược vừa là những kẻ độc ác, tay dính máu người. Để mua lại đôi chút tình cảm vờ vĩnh của dân các vùng phụ cận, tức khách hàng vĩnh cửu của mình, dân làng Quách Thổ bán lại những chum vại nổ, vỡ, méo mó hoặc non lửa hoặc già lửa và những chiếc tiểu không đủ tiêu chuẩn với giá rẻ như bèo . Khách hàng đầu bảng của họ chính là dân làng Khoai, làng bần cùng nhất trong đám làng bần cùng. Xây cả một ngôi nhà năm gian bằng những thứ chum méo, vại thủng hay tiểu sành vỡ đáy này chỉ tốn bằng tiền mua một chiếc tiểu đúng chất lượng. Thế là ngôi nhà dành cho cả chục người sống cũng chỉ trị giá như nấm mộ cỏn con dành cho người dưới tuyền đài. Dân làng Khoai quen với hình dáng kinh dị của những ngôi nhà xây bằng đồ phế thải. Nhưng nếu khách giang hồ lạc đường ghé qua đây, ắt hẳn phải giật mình kinh sợ vì những bức tường cong queo, lồi lõm, khi phình ra như những chiếc bụng ỏng, khi dúm lại như vỏ quả bóng xì hơi. Chúng đem lại nỗi ngần ngại hãi hùng, vì với hình dạng kì dị như thế, chúng gần với hang hốc, nơi trú ngụ của gấu ngựa hay hùm beo chứ không phải những ngôi nhà dành cho con người. Vì lẽ đó, hình ảnh những ngôi nhà ngay ngắn, đẹp đẽ, với mái ngói đỏ au là giấc mơ tót vời của người dân ở đây. Và là một giấc mơ bất khả trong hiện tại. Như thế, đủ hiểu vì sao người ta xúm đen xúm đỏ xem những chiếc xe chở vật liệu và toán thợ tỉnh về làng như du khách xem bảo tàng.

Công việc xây dựng tiến hành một cách hối hả. Cậu em bà giáo ở lại trực tiếp chỉ huy. Ngôi nhà hai tầng hiện lên như trong chuyện cổ tích. Nó vượt qua trí tưởng tượng của mọi người. Nhà mình xây xong, bà giáo có nhã ý tặng cho ông cậu chồng đương kim chủ tịch xã nửa xe gạch và xi-măng còn thừa, động viên ông cậu: " Dấn lên, cháu ghé vai gánh đỡ một nửa ". Ông chủ tịch dấn lên thật, vì cơ hội ngàn năm có một mà bỏ qua thì hoạ là điên... Bà giáo hỗ trợ ông để có thể thay đủ bốn bức tường gạch với lên một mái ngói. Còn cậu em bà tự nguyện chờ đến năm sau.

Hôm khánh thành nhà mới, bà giáo làm hai mươi mâm cỗ mời họ hàng. Một tuần sau, ông chủ tịch quyết định cho cửa hàng kinh doanh xã dời về tầng chệt nhà bà bởi không thể tìm đâu ra một nơi lý tưởng đến thế cho dân làng tụ họp, nhận các phần tem phiếu và mua mọi loại nhu yếu phẩm, từ mắm muối, len vải sợi, đến sách bút cho trẻ em, thuốc thang cho người ốm, từ quần đùi, may-ô, sơ-mi dệt cho các ông cho đến gương lược, kim chỉ, sáp chống nẻ môi và nước hoa rẻ tiền cho các cô các bà. Bốn gian phòng thênh thang khả dĩ vừa làm cửa hàng, vừa làm kho chứa, vừa là nơi khách ngồi chuyện gẫu. Như thế, đương nhiên bà giáo được bổ nhiệm làm cửa hàng trưởng, thay cho cô cửa hàng trưởng cũ vừa bị kỉ luật vì tham ô. Ông giáo lẫn hai cậu con trai rút lên tầng trên. Tầng này, cũng có ba gian rộng rãi, ngoài nơi làm việc, ăn uống của ba bố con, ông vẫn còn nơi thờ cúng tổ tiên, hoặc ngồi ngắm cảnh. Cuộc đổi đời xảy ra gần như trong chớp mắt, giống như chiếc đũa thần của bà tiên chạm vào mớ áo quần rách rưới của nàng Lọ Lem và biến chúng thành xiêm y lộng lẫy, chạm vào quả bầu để biến nó thành cỗ xe ngựa xa hoa chở nàng đến với Hoàng tử trong Vương quốc của những chiếc giầy thuỷ tinh.

Dân làng Khoai dù đã được mời ăn cỗ nhưng vẫn điên lên vì bỗng dưng chuyện cổ tích hiện về. Mà nếu chuyện cổ tích đã hiện về thì những nén vàng thoi bạc phải chia đều cho chúng sinh, cớ sao bao nhiêu ân sủng dồn cả cho lão giáo làng ngơ ngẩn ? Thế là người ta cố công moi cho ra bí ẩn của sự việc.

Cuộc dò tìm không mấy khó khăn bởi tám gã thợ kia trong lúc làm nhà đã đủ thời gian để liếc các cô gái làng và chết mê chết mệt vì nhan sắc của họ. Trong đám thợ ấy ngoài những gã đã hai ba mụn con với một nái xề giữ chuồng gà chuồng lợn nơi quê nhà cũng còn được hai chàng chưa vợ. Hai gã thợ xây trẻ nếm cơm thiên hạ đã mòn môi , nhận ngay ra vẻ đẹp của các cô gái trong cái làng nghèo xa lắc xa lơ, nơi cùng sông cuối núi này. Cả hai quyết tâm cưa bằng đổ các cô, quyết tâm " đi theo gót ông già kháu lão chịu chơi tên là Quảng ". Vài bữa cơm rượu trong nhà người đẹp đủ cho hai chàng trai phun ra tất thảy mọi bí mật về tình sử "cô Ngân, ông Quảng", kèm theo những bình phẩm của mọi loại dân trên công trường. Sau rốt, người ta được thoả mãn vì đã tìm thấy chiếc đũa thần của bà tiên, chiếc đũa biến những con cóc thành cặp giầy thuỷ tinh tuyệt mỹ.

Lần này, mọi dư luận không còn chạm tới ông giáo làng được nữa, bởi ông cố thủ trên căn gác, suốt ngày ngồi đọc sách. Cậu em vợ khuân hai thùng sách cũ thư viện công trường thải ra đem về làng, làm quà tặng cho ông anh rể, kèm theo ngọn đèn điện chạy ắc-quy. Người ta thường xuyên nhìn thấy ông qua khuôn cửa sổ thênh thang của căn gác, nghiêng đầu trên chồng sách , thay vì hì hụi đánh dậm ban đêm hoặc chổng mông lên mò cua giữa trưa hè một thuở chưa xa. Bà giáo tươi cười như hoa, càng ngày càng béo phây phây, má đỏ hồng như má con gái. Bà mặc vải phin nõn hoa, tai đeo nụ chân đi dép Trung Quốc tím trong suốt, kể như thế đã là giấc mơ tột đỉnh của đám đàn bà cầy cuốc đương thời.

Tuy nhiên, bà không bao giờ dám nhắc đến tên con gái. Vài tuần sau ngày khánh thành nhà mới; nghe đâu ông Quảng cô Ngân về làng đăng kí kết hôn. Nếu quả thực như vậy, chắc chắn chủ tịch xã sẽ đích danh làm thủ tục. Còn nhân chứng hẳn không thể là ai khác ngoài bà mẹ vợ và cậu em trai của bà. Tất thảy diễn âm thầm và vô cùng mau lẹ, người ngoài cuộc chẳng thể biết. Bởi chính chủ tịch xã không hé môi nói nửa lời. Người ta đồn thổi hoặc suy đoán như vậy vì bắt gặp cặp vợ chồng mới quay trở lại chiếc xe ô-tô chờ họ bên kia sông để trở về thành phố. Đưa chân họ là bà mẹ và ông cậu. Chủ tịch xã tươi cười vẫy tay chào . Cô Ngân nhỏ nước mắt trước khi trèo lên xe. Cô nhìn vài lượt làng cũ, con sông, cánh đồng... nơi chôn rau cắt rốn, nơi đớn đau thân thiết, nơi cô sẽ không còn có cơ quay trở lại.

Tiệc rượu tất niên trong nhà cô Vui kéo qua giao thừa. Pháo nổ tứ bề nhưng đám người say chuyện vẫn còn ngồi hỉ hả nâng chén lên, hạ chén xuống:

- Đã giao thừa rồi sao ? Vui chuyện quên cả đường về .

- Gọi là Tết thì cũng phải được thoải mái. Quanh năm đầu tắt mặt tối còn gì ?

- Nhưng lẽ ra tôi phải về đốt pháo.

- Đốt pháo là việc của trẻ ranh, sao ông lại tranh với chúng nó ?

- Nhưng con tôi còn bé quá.

- Bé quá thì vợ ông làm, bề nào thì cũng đã quá giờ. Ông có đi bây giờ cũng bằng vô tích sự.

- Ờ... ờ...

- Vui thật, nghe pháo nổ sướng cả tai. Dù sao Tết cũng vẫn là Tết !

- Tết năm nay xôm ra trò. Mà cũng lạ lùng. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ, chẳng bao giờ tôi qua giao thừa ở nhà hàng xóm.

- Tôi cũng vậy. Nhưng sống mãi cũng phải tìm cái gì mới lạ . Mà dẫu ngồi dưới mái nhà mình hay nhà láng giềng thì cũng vẫn rượu, vẫn thịt, vẫn bánh chưng xanh với đồ nhắm. Có thiệt miếng nào đâu ?

- Chẳng thiệt miếng nào đã đành mà còn được nếm rượu thượng đẳng nữa. Phải công nhận rằng tay nghề của cô Vui đáng kính nể. Cô ấy học được phép bí truyền của bà cụ thân sinh ông Đô. Cùng một thứ men, cùng một thứ nếp nhưng rượu nhà này say êm hơn rượu nhà tôi.

- Không chỉ có rượu ngon mà còn trà ngon và chuyện hay nữa chứ ! Này cô Vui, tôi tưởng cô chỉ giỏi làm nhưng không ngờ cô còn giỏi nói nữa. Lẽ ra cô nên làm nghề giáo học.

- Không dám, ông quá khen ! Tôi nghe được ra sao thì kể lại nguyên si như vậy, không thêm không bớt.

- Kể nguyên si cũng phải biết rút lưỡi ra mới đổ được nhời. Thiếu gì kẻ hiểu rành rẽ mọi sự mà không nói được cho ra nhẽ .

- Ôi dào, các ông khen phò mã tốt áo. Cô ấy làm bí thư chi đoàn đương nhiên phải biết nói năng .

- Bí thư chi đoàn thì cũng chỉ biết phổ biến nghị quyết, biểu dương thành tích hay công bố kỉ luật chứ làm sao biết tả cảnh tả tình lên bổng xuống trầm như thế ?

- Đúng đấy. Rõ rành rành là cô Vui có năng khiếu kể chuyện. Nhưng phải công nhận rằng tình sử của cặp vợ chồng này cũng hay.

- Ông có lý. Chuyện tình của ông Quảng xôm ra trò. Năm nay vui đáo để ! Bởi năm nào cũng chỉ có một vở chèo. Năm nay, những hai tích chèo lận. Này cô chủ, cho thêm rượu với...

- Chờ tôi một chút.

- Chúng tôi không nói cho được lòng chủ nhà đâu, nhưng quả thực cô có tài ăn nói. Tiếc rằng cô xuất đầu lộ diện hơi muộn. Cô mà là giáo viên dạy văn cấp hai thì khối kẻ xin chết đấy.

- Không dám đâu.

- Cô đừng tưởng trên đời này chỉ đơn thuần là " Gái tham tài, giai tham sắc". Nhiều khi cánh đàn ông cũng tham tài nữa đấy. Tôi là đàn ông tôi hiểu bụng dạ đàn ông.

- Thôi, tôi xin các ông ! Không dám !...

- Tôi nói thực tình chứ không nịnh rượu của cô đâu. Đói ngày giỗ cha no ba ngày tết, nhà chúng tôi cũng đầy rượu thịt, bánh trái. Nhưng ăn mà không có người cùng ngâm nga, không có chuyện mà tán tỉnh thì vô duyên quá. Tôi nói có phải không các ông ?

- Đúng như vậy ; chuyện cô kể thật tuyệt vời. Điều đó đáng giá hơn ngàn lần hai mâm cỗ của cô.

Cô chủ mang tiếp ra hai chai rượu nữa. Không rõ những lời khen của khách là thật hay dỡn nhưng hai má cô đỏ ửng lên, mắt cô long lanh và rõ ràng trông cô xinh gấp bội ngày thường. Cánh đàn ông tiếp tục rót rượu, nhưng những người đàn bà đã nháo nhác đứng lên:

- Thôi đi chứ, Tết nhất mà ăn uống như thuồng luồng ba ba, quá bằng kẻ đói năm Ất Dậu.

- Ô hay, cứ để các ông ấy được tự nhiên. Tết có đông khách đến nhà ăn uống ra giêng chắc chắn sẽ làm ăn thịnh vượng.

- Sông nào cũng có bờ có bến, vườn dẫu hẹp dẫu rộng cũng có rào có dậu. Tiệc nào rồi cũng phải tàn. Về đi cho cô chủ nghỉ ngơi.

- Về đi ! Tôi sốt ruột lắm rồi.

Những người đàn ông tuy có oai phong lẫm liệt nhưng sau rốt cũng phải hiểu rằng khi các bà lên tiếng có nghĩa rằng giờ đã điểm. Một ông dốc tuột chén rượu cuối cùng vào họng rồi hắng giọng:

- Nào các ông, cạn chén đi rồi đứng lên. Người xưa bảo:"Lệnh ông không bằng cồng bà". Người thời nay thêm vào: " Nhất vợ, nhì trời ".Thôi, chúng ta cũng phải nhìn người đời mà hành xử.

- Ông đúng là đồ râu quặp.

- Tôi đích thực râu quặp, xin nhường cho ông vểnh râu. Ở đây ai mắc bệnh râu quặp như tôi ?

- Tôi.

- Tôi nữa.

- Tôi cũng vậy...

Các bà vừa vỗ tay tán thưởng, vừa cười sặc sụa khi nhìn các đức lang quân nghiêng ngả đứng lên. Sau rốt, chỉ còn lại hai ông râu vểnh. Hai ông này ngó xuôi ngó ngược thấy xung quanh đã đứng lên hết cũng đành dằn chén xuống mâm:

- Nào thì về ! Rõ thật chán mớ đời cái bọn đàn bà. Chuyện đang rõ là vui.

Một bà đanh đá ngứa mồm đối đáp:

- Chuyện vui đến mấy cũng đến lúc chấm hết. Hát cô đầu hay đến mấy cũng đến lúc phải hạ trống chầu. Không kẻ nào cả gan tom chát suốt ngày dài đến đêm thâu. Chẳng qua vợ các ông quá hiền nên mới chịu bị bắt nạt.

- Việc ấy chẳng dây dưa đến nhà bà. Tôi có lấy bà làm vợ đâu ?

- Ồ, may thật là may, phúc nhà tôi to bằng cái đình nên tôi không phải chui vào cửa nhà ông. Trên đời này ai ghét tôi thế nào tôi ghét hạng đàn ông vểnh râu như thế.

- Tôi cũng ghét...

Bà vợ ông râu vểnh đứng nép sau đám chị em, im lặng từ đầu giờ mới lên tiếng:

- Lòng vả cũng như lòng sung các bà ạ. Khốn nỗi các cụ đã dạy: " Ghét của nào trời trao của ấy " Chịu nhịn mãi rồi cũng thành quen...

- A... a... Con mẹ này hôm nay to gan nhỉ ?

Ông râu vểnh quay lại nhìn vợ với đôi mắt trợn trừng, nửa như kinh ngạc nửa đe doạ. Bà vợ được kích thích bởi khí thế của láng giềng, cũng sửng cồ lên:

- Ai cũng da cũng thịt. Chị em người ta dám như thế, tôi cũng phải vùng lên chứ ?

Đến đây thì cô chủ ra tay can thiệp vì không khí bắt đầu căng thẳng. Bước hai bước, cô xen giữa cặp vợ chồng, cười nụ cười tươi chưa bao giờ thấy:

- Bà ấy nói đúng đấy, tất cả loài người đều hát khúc hát vùng lên !

Rồi cô tủm tỉm nhìn quanh. Khi thấy mọi người đang ngẩn tò te trước cách diễn đạt quá văn chương của mình, cô liền cao giọng:

- Trong số các vị ở đây tôi điểm thấy tám đảng viên cả thẩy. Chẳng lẽ các vị đã quên bài hát tuyên thệ dưới đảng kì hay sao ?

Tám ông đảng viên nhìn nhau, người này cầu cứu trí nhớ của người kia nhưng rốt cuộc tất cả đều ậm ừ, ngắc ngứ trong họng. Lúc đó cô Vui mới dõng dạc đọc từng lời từng chữ:

-" Vùng lên hỡi các nô lệ của thế gian ;

Vùng lên những ai cực khổ bần hàn ;

Chế độ xưa ta mau phá sạch tan tành..."

Thế nào, các ông đã nhớ ra chưa ?

- Quên tiệt.

- Chịu cô thật. Ngày kết nạp thì phải cố học vài câu mà ư hữ cho qua chuyện. Xong thì thôi chứ có phải cơm áo gạo tiền đâu mà nhớ ?

- Thế mà tôi cuộc rằng các ông nhớ không sót mảy may chuyện nhà ông Quảng. Điều đó đúng hay sai ?

- Chả phải bàn. Cũng chả cần chối. Chuyện trong làng trong thôn thì chẳng cần vắt óc cũng nhớ như nhớ cái gối đầu giường. Còn những bài hát tận đẩu tận đâu, từ những bên Tầu bên Tây đưa về hơi sức đâu mà bận tâm cho nhọc ?

- Chính phải.

Lúc ấy, một trong hai ông vểnh râu lên tiếng:

- Tôi đố các vị chuyện đã chấm hết chưa ?

Vẫn là chị chàng đanh đá trả lời trước:

- Chẳng chấm hết thì còn gì nữa. Kết thúc, anh lấy ả, ả chui vào giường anh... Ông còn muốn gì hơn ?

- Rõ thật là đồ đàn bà, óc không to hơn quả bưởi, mắt nhìn không quá hai sải tay.

- Phải chúng tôi ngu, nhường cho ông khôn hết... Rõ ra đồ sĩ diện, lòng tự ái to bằng cái bồ.

- Nghe cho rõ đây này: Chuyện bây giờ mới bắt đầu. Mọi người không thấy thể sao ?

- Chúng tôi chẳng thấy gì hết. Người ta đã thương nhau, đã đi cuối núi cùng sông, đã làm thủ tục kết hôn hợp pháp, còn ai dám xen vào ?

- Đã làm thủ tục chưa cô Vui ?

- Tôi không rõ. Nghe người ta đoán già đoán non thế thôi.

- Mà không có thủ tục thì trai chết vợ, gái chưa chồng, làm gì được họ ? Mấy ngàn năm trước tổ tiên mình vẫn lấy nhau vẫn sinh con đẻ cháu, có ai cần đến tấm giấy kết hôn với con dấu đỏ của chính quyền đâu ?

- Tấm giấy kết hôn không to nhưng củ tỏi lại to. Vấn đề là ở đấy.

- Cái gì là củ tỏi ? Ông định nói đến cái cặp ngọc hành lủng lẳng trong đũng quần chúng ta phải không ?

- Sao mà tối dạ đến thế ? Bìu dái là bìu dái còn củ tỏi là củ tỏi ; thứ nào đi thứ nấy. Ban đêm ông có sờ nhầm con hến của bà ấy thành cái ấm pha chè đặt trên bàn hay không ?

- Ông ví von rắc rối bỏ mẹ.

- Rắc rối mới là sự đời. Bây giờ ai dám đánh cược với tôi là chuyện nhà này chấm hết ? Còn tôi, tôi cho rằng màn vừa khép sau hồi một. Mà hồi hai mới thực xôm trò... Nào, ai dám chơi ?

-.......

- Các vị nhát như cáy đồng. Không ai dám lên tiếng hay sao ?

- Thôi, tôi chẳng dại.

- Cược với ông làm gì ? Nhỡ đến tai người ta, miếng chẳng được lại nghe câu chửi. Xưa nay nhà ông ấy có hại ai bao giờ đâu ?

- Thôi, đừng có bé xé ra to ! Chuyện gì đến khắc đến. Xin thay mặt bà con cảm ơn cô chủ. Giao thừa năm nay vui thật là vui !

Đám người lục tục chuẩn bị đốt đuốc, rọi đèn, khoác áo ấm rồi kéo nhau ra về. Khi những ánh lửa bập bùng trên các ngả đường thôn Trung, gà đã cất tiếng gáy chào canh một. Chó sủa ran lên theo bước chân

người. Trời đen như mực và không gian ắng lặng. Cô Vui tắt cây đèn măng-xông, bắt tay vào dọn dẹp nhà cửa dưới ánh sáng của một dãy nến sáp ong tự chế.

Trong thâm tâm, cô phập phồng chờ đợi:

" Chuyện gì đến khắc đến !"

Cô biết những người khác cũng đang chờ đợi như mình. Do tính thận trọng lưu truyền, người dân quê không bao giờ dám tham gia vào một vụ cá cược nhưng họ thầm kín theo rõi mọi câu chuyện và cũng thầm kín mong đợi nó xảy ra theo sự phán xét của mình. Luôn luôn ấp ủ giấc mơ trở thành kẻ phán xét, kẻ có quyền hành nơi những con người sống chật vật và đơn điệu. Cô Vui cảm thấy giấc mơ thầm kín ấy đang cựa quậy trong tâm hồn mình, tựa hồ cái bào thai đang quẫy đạp trong bụng một người mẹ. Cô linh cảm thấy "...cái gì đó sẽ đến, không chóng thì chầy...". Cô nhớ đôi mắt vằn lên của chủ tịch Quý khi cô mô tả ngôi nhà hai tầng, bảy buồng của vợ chồng ông giáo làng Khoai. Bởi nhà của chính ông Quảng vẫn chỉ là kiểu nhà cổ truyền một tầng tuy rộng mênh mông và xương khung kết thuần gỗ tứ thiết. Còn nhà của Quý kém nước hơn nhiều. Vậy mà giờ đây bố con đĩ Ngân lại thượng trên tầng gác suốt ngày ngồi đọc sách, cảnh tượng ấy làm sao chịu nổi ? Linh cảm mách cho cô Vui hiểu rằng cuộc tình này ắt dẫn đến bão tố. Nhưng bão tố theo kiểu nào, gió thổi từ núi cao hay từ biển xa tới, cô không thể dự đoán.

Bỗng nhiên, con mèo già trong bếp xồ ra, khoèo vào chân Vui:

- Cút ngay, con điên này...

Cô quát, tiện chân thượng cho nó một đạp.

- Ngoeo.. .ngoeo... eo...

Con vật nhảy phóc sang một bên, cất tiếng kêu ai oán, đôi mắt nó hướng về phía cô, tròn xoe nỗi kinh hãi và ngạc nhiên. Cô chủ tặc lưỡi:

- Mình quên, nó chưa được ăn. Suốt tối bận khách khứa, quên cả mèo.

Bỏ mớ bát đĩa đang dọn dở, cô vào trạn, lấy ra con cá kho, đặt vào chiếc đĩa mẻ dành riêng cho mèo ăn:

- Nào, giờ mới đến lượt mày...

Con vật vừa tiến đến đĩa cá vừa tiếp tục kêu, mắt không rời cô chủ. Dường như nó chưa hiểu và chưa thể bỏ qua hành vi lỗ mãng của Vui. Cô bỗng nhiên bật cười:

- Thôi, ngoeo ngoeo gì nữa, ăn đi cho rồi...

Rồi cô ngồi xuống, đối diện với con vật để cho nó yên tâm rằng cơn thịnh nộ của cô đã qua . Khi con mèo già cúi đầu xuống đĩa cá, cô bỗng nhiên có ý tưởng lạ lùng rằng cô cũng giống như một con mèo. Một con mèo đang ngồi rình mồi trong bóng tối. Nhưng không phải là một con mèo già mà là một con mèo cái, đang còn rất trẻ và tràn trề sinh lực. Ý nghĩ ngộ nghĩnh ấy khiến cho cô tủm tỉm cười mãi một mình.

Con mèo ăn xong, liếm mép với vẻ hài lòng rồi tót lên nhà trên, khoanh mình trên cái ổ khâu bằng vải vụn. Cô Vui tiếp tục dọn nhà, rửa bát. Những ngọn nến đại cháy bùng bùng từ trên nhà xuống bếp, ánh sáng thừa thãi hoang tàng. Ong nhà nuôi, sáp làm nến quanh năm dư dả. Hơn nữa, bố cô đã dạy:

" Sống dầu đèn, chết kèn trống "

Cô không việc gì phải tùng tiệm như những người đàn bà nheo nhóc một nách năm bảy đứa con. Bữa tiệc tất niên này khiến cô mãn nguyện.Vừa rửa bát, cô vừa lẩm nhẩm bài:" Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian." Tự thán phục mình vì trí nhớ siêu việt và vì khả năng văn chương bỗng nhiên dạt dào tuôn chảy. Khi cô rửa xong bát đĩa, dọn nhà láng bóng như gương thì vừa rạng sáng. Trời lạnh, nhưng mồ hôi nhơm nhớp chảy dọc sống lưng. Cô tặc lưỡi:

- Tắm cái đã !Thế là năm nay, trước lẫn sau giao thừa, ta tắm cả thảy hai lần !

Đó là một sự bất thường. Vì người ta thường kiêng tắm sau giao thừa. Nhưng những kẻ sống độc thân thích thờ vị thần sạch sẽ. Vị thần này mang cho họ niềm kiêu hãnh mà những ai bìu díu con con, cháu cháu, chồng chồng vợ vợ không có quyền hưởng thụ.

Vui tắm xong, đồng hồ chỉ bảy giờ kém mười lăm. Sương hãy còn trùm phủ núi non nhưng những rặng cây quanh vườn đã lờ mờ hiện lên với những vòm lá ướt sũng. Cô chủ đứng nhìn vườn cây trong chốc lát, mơ màng. Rồi cô khoá cửa, lên giường ngủ:

" Cái gì sẽ đến, ngày mai ? "

Cô tự hỏi, khi khoan khoái duỗi tấm thân đồ sộ dưới tấm chăn bông.

***

Cái gì phải đến, ắt sẽ đến !

Nhưng người ta chẳng cần súng sính văn chương chữ nghĩa, mà cũng chẳng cần nhọc công chờ đợi. Ngay chiều mồng một Tết, sự đã sinh.

Vào lúc cửa nhà cô Vui còn đóng kín mít. Tiếng ngáy rền như sấm, lên bổng xuống trầm như giọng hò kéo gỗ của cô còn vang khắp năm gian nhà. Cái sự sinh, sinh sự. Cái cảnh màn hai trong tấn tuồng của gia đình ông Quảng mà cô thầm chờ đợi đã đến. Tiếc thay cô không được chứng kiến tấn tuồng ấy, dẫu cô là người duy nhất trong Xóm Củi đã trèo đèo lội suối đi đến tận làng Khoai xa xôi kia.

Theo lệ thường, sáng mồng một Tết mọi người khăn áo chỉnh tề thay hương trên bàn thờ, cúng gia tiên. Cúng xong, trời ắt đã non trưa, họ được quyền ngả cỗ ra đánh chén một bữa tuý luý để cả năm có cơ dồi dào chè rượu. Cỗ xong, là thời khắc đón khách trong gia tộc. Thời khắc ấy, gia chủ đón con trai kèm theo con dâu, con gái kèm chàng rể và đàn đàn lũ lũ cháu nội cháu ngoại. Phải có mâm ngũ quả ê hề để trẻ con được quyền ăn thoả sức. Phải có hộp phong bao đỏ chót để phân phát một cách đồng đều tiền mừng tuổi cho đám hậu duệ, không kể gái hay trai, ngoại hay nội. Phải có bánh kẹo, các loại mứt khác nhau để mọi người nhấm nháp với nước trà.

Năm nay, nhà ông Quảng chỉ có hai vợ chồng son. Cậu Quỳnh vẫn sống dưới thôn Hạ với bà ngoại. Sau buổi thương thuyết thất bại của hai cậu, chính Quỳnh phải lên xin bố áo quần và mọi thứ vật dụng kèm theo một khoản tiền đủ trả học phí lẫn sinh hoạt phí. Chỉ một tuần lễ sống dưới mái nhà ngoại, chàng trai đã hiểu rằng những lời nói tốt đẹp không ve vãn được túi tiền. Bà ngoại cũng như hai cậu chỉ có thể cung cấp những lời khuyên giải xuông hoặc những kích động không hiệu lực. Họ không thể làm gì hơn. Và Quỳnh đành chấp nhận sống ở đó như khách trọ, góp tiền ăn hàng tháng. Chàng trai không muốn quay lại mái nhà cũ, phần vì sĩ diện của kẻ đã tự ý khăn gói ra đi, phần vì nhan sắc của bà mẹ kế khiến cậu điên đảo. Chắc chắn hiểu lòng dạ con, ông bố không nài ép:

- Được, anh muốn thế nào được thế nấy. Còn năm gian nhà dành cho anh, anh tính sao ?

- Bố hãy giành cho mẹ kế và các em. Con không có ý định quay trở lại.

- Hãy nghĩ cho kĩ.

- Con chỉ xin tiền bố học hết đại học. Học xong, con tự liệu thân.

- Nếu được vậy, tôi lấy làm mừng. Chỉ e anh không vào nổi cửa trường trung cấp.

- Con biết. Từ giờ con sẽ ra công học.

- Được, tôi sẽ lo cho anh đủ tiền.

- Con xin bố.

Cuộc đối thoại chấm dứt và cậu con út xách chiếc hòm véc-ni vàng óng ra đi. Ắt là một cuộc chia ly tốt đẹp vì sau đấy, Quỳnh bỗng nhiên trở thành chín chắn , học đến đâu nhớ đến đấy. Thành tích vượt bực của cậu ta khiến cả trường kinh ngạc.

Ông bố ở lại với tình yêu mới của mình. Cả một dinh cơ rộng mênh mông, năm gian nhà chính, mười gian nhà ngang cả bên tả lẫn bên hữu chỉ có anh với ả.

Như thế Tết năm nay, ắt hẳn là ông Quảng sẽ là người được quyền mừng tuổi cho cô Ngân. Quà mừng tuổi của cô không phải là chiếc phong bì đỏ đựng mấy đồng bạc mới mà là một hộp nhung màu cánh hồng. Khi cô mở hộp, mắt cô sáng lên như điện và cô nhảy bổ đến bá cổ ông chồng:

- Anh chàng kháu lão ! Thật tuyệt vời.

- Quà này liệu có xứng với cô gái làng Khoai ? Hay là cô văn công quân khu tả ngạn ?...

- Văn công tả ngạn hay hữu ngạn cũng chẳng bằng về làm chủ trại nhà ông Quảng nơi xóm Thượng.

- Mình có chắc không đấy ?

- Chắc như cột lim.

- Hễ lão giáo Tường quay về đây rủ rê bỏ tớ mà đi thì tớ sẽ treo cổ lên cây mít đầu vườn.

- Phỉ thui cái mồm nói láo. Mà anh nói treo cổ ai ?

- Treo cổ cô ả trước, rồi đến lượt tớ sau. Cùng một giờ không hơn không kém. Để sau này con cái tiện làm ma.

- Nói gớm chết.

- Sao non gan thế ? Tôi đùa một chút thôi...

- Đừng đùa dại như thế. Mình đã cay đắng bao nhiêu rồi. Mình sẽ sống cùng nhau đến lúc bước xuống mồ.

Cô ôm chặt lấy ông, nước mắt rưng rưng tưởng như sự chia cách đang rình rập bên ngoài khuôn cửa. Ông ôm chặt lấy cô, để xác định sự chở che vô điều kiện của mình. Vào khoảnh khắc ấy, ông lại có một cảm giác hết sức chính xác, hết sức mãnh liệt như cảm giác trong lần gặp đầu tiên, khi cô bối rối đặt hai chai rượu xuống bàn, trong căn phòng trọ nơi thành phố: Cô chính là một phần xương thịt của ông, một phần đời của chính ông, phần đời mà ông đã quên lãng, đã đánh rơi từ bao nhiêu kiếp trước ở một vùng xa lơ xa lắc phía bên kia chân trời. Họ đứng như thế hồi lâu, trong không gian yên ả của đầu xuân, vừa đinh ninh vừa ngạc nhiên vì sao bỗng dưng họ lại gắn bó với nhau đến thế, vì sao bỗng dưng họ lại yêu nhau tha thiết thế, sợi dây thần bí nào của định mệnh đã ràng trói họ, hai con người vừa còn là những kẻ không quen biết trong một quãng thời gian chưa xa ?...

Rồi tiếng chó sủa và tiếng chân bọn trai trẻ đi chơi xuân sớm ngoài đường thôn khiến họ bừng tỉnh giấc mê tình ái. Cô Ngân vội vã mắc đôi nụ mặt đá ru-bi đỏ lên tai:

- Thôi chết, đã đến giờ làm cơm cúng tổ tiên.

- Không việc gì phải vội ? Tổ tiên chứng dám rằng chúng ta cùng có lòng thành. Nửa trưa bưng cỗ lên là được.

Ông đáp.

Tuy chỉ có hai người nhưng cỗ cúng vẫn phải đủ lệ bộ. Dẫu xuất thân từ làng nghèo, nhưng đã nếm nhiều thứ cơm thiên hạ lại vốn dĩ thông minh nên cô Ngân đủ tay nghề lo liệu. Không cần chồng hỗ trợ cô vẫn làm được mâm cỗ mười món trong vòng hai tiếng đồng hồ: Gà luộc lá chanh, gà rán ướp mật ong, thịt bò xào măng, cá quả xào cần, thịt lợn xào bông cải, mọc gà, mọc lợn mộc nhĩ, chân giò nấu đông, tôm nấu bóng, xương sườn om măng. Còn các loại giò lẫn bánh nếp bánh chưng không tính. Đúng ngọ, cỗ bưng lên bày la liệt mặt bàn thờ. Mười tám đĩa lẫn bát cho món chính lẫn món phụ. Ông Quảng đứng vê râu trầm trồ khen vợ. Hương trầm bốc khói thơm ngát khắp mấy gian nhà. Có một thứ nồng ấm của ngọn lửa vô hình lan toả trong không gian, có một gương mặt tươi cười vô hình của vị thần hạnh phúc ngự trị dưới những mái nhà mà người ta yêu thương nhau...

Vào đúng lúc ông Quảng áo xống chỉnh tề, đứng ngay ngắn trước bàn thờ tổ tiên chuẩn bị khấn, Quý dẫn vợ và hai đứa con gái bước vào. Anh ta mang đến hai trái bưởi đào vườn nhà với mấy chồng bánh gai là thứ bánh bà Quảng thích ăn nhất khi còn sống. Đặt lễ vật trên bàn thờ xong, Quý nói:

- Con xin được khấn mẹ con trước, xong việc con còn phải đi chúc tết các đoàn thể và dân xã.

Ông Quảng quay lại, nhìn con trai:

- Lui ra kia ! Trên bàn thờ này có tổ tiên tôi năm bảy đời về trước. Sau đấy đến cụ kị, ông bà bên nội bên ngoại của tôi. Rồi đến cha mẹ, chú cô, cậu dì của tôi. Thứ nữa, đến người anh trai tôi chết trẻ. Mẹ anh, tức là vợ tôi còn phải chờ sau lượt ông ấy. Thứ tự đó là niêm luật, không có quyền đảo ngược.

- Nhưng con...

- Lui ra kia.

Ông bố quát. Không nói ra nhưng ông biết rằng cả nhà Quý không ai chào cô Ngân, và cô đã lui ngay xuống bếp khi thấy vẻ sinh sự trên những gương mặt của họ.

- Đây là nhà tôi. Không phải trụ sở uỷ ban xã. Quyền của anh dùng ở chỗ khác, không phải dưới mái nhà này.

Vẻ quả quyết của ông khiến Quý chùn bước. Vợ anh ta, luôn luôn nép vào một xó nào đấy, thò tay kéo áo chồng. Quý đành hậm hực đứng yên, chờ ông Quảng khấn vái.

Bài khấn của ông Quảng khá dài vì ông phải triệu hồi theo thứ tự từ cao xuống thấp vong linh tất cả những người thân thuộc, từ năm bảy đời trước cho tới bà vợ vừa chết mùa xuân năm vừa rồi. Quãng thời gian ấy quả là khó chịu đựng nổi với một đứa con thích sinh sự mà lại đang có quyền lực trong tay. Chủ tịch Quý hết dậm chân nọ lại đến chân kia. Dường như có một ổ kiến lửa đốt dưới bàn chân khiến anh ta không đứng yên nổi. Khi ông Quảng vừa dứt lời, anh ta liền nhào đến trước bàn thờ, vái hai vái cúi gập lưng kiểu như phường tuồng rồi cất tiếng gào thật to:

- Mẹ ơi, mẹ ở dưới tuyền đài có khôn thiêng xin quay trở lại, mở mắt mà nhìn mọi sự nhiễu nhương dưới mái nhà này. Mẹ ơi, nhục nhã cho các con lắm. Tại sao mẹ vội ra đi để cho cóc nhái nhảy lên bàn, để gà tha rác vào nhà, quạ về đậu trên ngọn buởi ngọn cam làm tổ ?

- Ối mẹ ơi là mẹ...

- Ối bà ơi là bà, bà đi đâu ? Bà bỏ lại con cháu như vậy bà ơi ?

Vợ con Quý, hẳn đã được chuẩn bị sẵn ; lên tiếng kêu khóc như dàn đồng ca nhạc kịch hoà theo giọng độc tấu. Tiếng kêu gào của họ vang lên trong không gian yên tĩnh của xóm thôn. Vào giờ này, mọi người đang còn chuẩn bị quần áo trước khi ra đường. Theo cổ tục, trừ lũ trai thích chơi xuân sớm, không ai ra khỏi ngõ trước giờ Mùi. Do đó, mọi lời qua tiếng lại cũng như tiếng kêu khóc của gia đình ông chủ tịch xã lọt tuốt tuột vào những cái tai lúc nào cũng sẵn sàng giỏng lên của láng giềng bốn phía .

Ông Quảng sững sờ chết lặng. Ông không chuẩn bị để đón nhận sự việc này. Nói cho đúng, chẳng một ai đủ sức tưởng tượng một sự việc như thế. Người ta lam làm cả năm, chờ đợi năm mới với tất cả những hy vọng mới. Ngày mồng một tết, là ngày thứ nhất của thời gian tương lai, của đoạn đời sắp tới, có tính chất đặc trưng thiêng liêng của sự khởi đầu. Bởi thế, không ai cãi nhau với ai ngày này, láng giềng dù có thù ghét nhau đến mấy cũng phải ngậm bồ hòn làm ngọt mà chào hỏi, chúc tụng vì nếu nói lời không hay, ý không đẹp thì sự rủi ro sẽ đến cho cả hai phía. Người ta kiêng mặc quần áo cũ, kiêng đi giầy dép cũ, kiêng chửi tục, kiêng quát tháo lẫn nhau, kiêng lườm nguýt nhau, kiêng khóc, kiêng làm bát đĩa vỡ, kiêng làm đổ nước tương, nước mắm, kiêng ném vỏ chuối hay vỏ cam ra sân, tất thảy những gì có thể gợi ý đến một rủi ro hay thiếu may mắn. Ngay cả đến những kẻ thù địch còn không dám sinh sự ngày tết, huống chi người thân thích, ruột rà ? Vậy nên ông đứng bàng hoàng khi nhìn đứa con trai đầu và gia đình nó gào khóc trước bàn thờ tiên tổ, biến ngày Tết thiêng liêng thành một đám ma. Nhưng qua một khoảnh khắc kinh ngạc, hoang mang, ông hiểu rằng ông cần phải hành động. Rút phắt cây trượng dựng trong góc nhà, vật bất ly thân gần hai mươi năm khi đi rừng, ông trỏ vào mặt Quý và quát:

- Cút ngay ! Cút ngay lập tức ! Đây là bàn thờ tiên tổ của tôi chứ không phải bàn thờ riêng cho mẹ anh. Nếu anh có lòng hiếu đễ, tôi cho phép anh mang ảnh bà ấy về nhà anh mà thờ. Lũ vợ con anh nữa, cút ngay khỏi nhà này, tôi cần con cần cháu, nhưng không cần bọn lưu manh phá rối. Tôi không cho phép lũ bất nhân biến mái nhà này thành cái chợ.

- Trời đất ơi, ông đuổi con đuổi cháu ra khỏi nhà, ông ơi...

Vợ Quý tiếp tục gào, trong khi anh chồng giương đôi mắt đỏ vằn nhìn bố. Hơi thở anh ta sặc sụa rượu ; chắc hẳn đứa con trai đã phải mượn hơi men trợ sức trước khi tới gây sự với ông bố già:

- Mẹ tôi đã sống ở đây, ông không có quyền đuổi tôi ra khỏi cửa nhà này.

Ông Quảng đứng ngây người trong giây lát, dường như không tin vào đôi tai mình... Trong gia tộc của ông, con không được quyền xưng tôi với bố, bất luận tình cảnh nào. Tất cả đám con ông, cũng như con cái của những người em trai ông và chị ông, đều biết rõ luật lệ này và coi đó như một thứ đạo luật của gia đình, phân biệt họ với những dòng họ khác, ít nghiêm minh hơn trong nền nếp gia phong và sự giáo dục. Chưa bao giờ trong dòng họ nhà ông xảy ra sự ô nhục này. Quý biểt rõ điều ấy. Bây giờ, chính anh ta là kẻ đầu tiên khạc nhổ lên lề thói của gia tiên.

Ông Quảng đứng lặng như thế hồi lâu. Những cơn nhói liên tục chạy qua tim như có kẻ liên tục đâm những nhát gươm xuyên qua nó. Lần đầu tiên trong đời, ông hiểu rằng trái tim một người bố cũng vô cùng mong manh và dễ bị tổn thương. Lần đầu tiên trong đời, ông biết nỗi đớn đau chua chát khiến hai mắt ông như mờ đi, và những cơn rung động lướt qua toàn thân ông như những cơn run của người sốt rét. Ông biết rằng sự thay đổi cách xưng hô là dấu hiệu của giới hạn cuối cùng. Rằng sau đây, họ sẽ không bao giờ còn là cha con như thuở trước. Không bao giờ còn như xưa. Cơn đau đớn vẫn nhói lên không ngừng nhưng cùng lúc ấy tấm thân ông đột nhiên cứng lại như đá, một cảm giác giống hệt cảm giác của lần đầu , khi ông mười bảy tuổi, lần đầu đặt lên vai cây cột nhà trước những con mắt thách thức của đám trai xóm Thượng.

Người cha nhìn bộ mặt đứa con trai, biến dạng bởi hận thù và men rượu. Một khoảnh khắc yên lặng nữa trôi qua. Rồi đột ngột, ông bố cất tiếng cười:

- Ông chủ tịch say rồi...

Ông tiếp tục cười gằn và giọng nói của ông bỗng trở nên lạ lùng khiến đứa con trai ông lẫn gia đình nó đưa mắt nhìn nhau kinh ngạc: Chưa bao giờ họ nghe ông nói với mọi người bằng cái giọng ngọt ngào, trịnh trọng như thế:

- Bà chủ tịch đưa ông về nhà nếu không tôi sẽ đem chuyện này lên thưa kiện huyện. Chủ tịch say rượu đến quấy rối nhà dân.

- Ông nói gì ?

Chủ tịch Quý hỏi lại, mắt trừng trừng nhìn bố. Có lẽ anh ta say, hoặc đúng hơn là anh ta thiếu thông minh để hiểu rằng người cha đã chuyển giọng, đó cũng chính là dấu hiệu của giới hạn cuối cùng: Ông đã phải đối đáp với đứa con rứt ruột đẻ ra bằng thứ ngôn ngữ ngọt ngào, thớ lợ. Thứ ngôn ngữ của kẻ chuyên đi kiếm cơm đất khách. Buông từng tiếng thong thả, ông Quảng đáp:

- Ông chủ tịch say rượu đến quấy rối nhà dân. Như thế, là làm tổn hại danh dự của đảng và chính quyền.

- Ông nói gì ?

- Bây giờ, ông không còn là con tôi nữa . Ông là chủ tịch xã, đại diện chính quyền. Ông say rượu, dẫn đồng bọn đến phá rối nhà dân.

- Tôi không say, tôi nhục vì ông lấy một con điếm về làm vợ.

- Xưa nay, các cụ vẫn dạy "Người ta lấy đĩ về làm vợ, không ai lấy vợ về làm đĩ ". Nếu cô Ngân là đĩ, tôi cũng chưa làm sai lời dạy của người xưa. Nhưng nếu vợ tôi không phải là điếm, ông chủ tịch sẽ chịu tội vu khống và nhục mạ công dân. Ông có hiểu điều đó không ?

- Vợ ông không là điếm thì cũng là con đĩ chửa hoang. Ông tưởng rằng không ai biết chuyện thày ngủ với trò, con Ngân ễnh bụng với lão giáo Tường hay sao ? Ông nghĩ rằng cứ quắp một con đĩ ở hang cùng ngõ hẻm, hay cuối núi cùng sông về đây là có thể bít bùng mọi sự, che mắt được thế gian hay sao ?

- Xưa nay, tôi vốn hành xử giữa thanh thiên bạch nhật, không có điều gì cần che mắt thế gian... Ông chủ tịch chui từ mái nhà này ra mà mau quên đến thế thì trí khôn ngắn ngủi thật. Đúng, cô Ngân chửa hoang. Cô ấy chửa với người cô ấy yêu là ông giáo Tường. Cũng như hàng vạn người đàn bà khác chửa với người đàn ông họ chọn. Cô ta chửa hoang vì cô ta mắn như gà ri. Còn nhiều người đàn bà khác không chửa hoang vì họ may mắn không thuộc loại máu bồ câu mà máu vịt. Ví như mẹ anh chẳng hạn. Bà ấy không chửa hoang vì không thuộc nòi mắn đẻ chứ chẳng phải vì cầm thật chặt chữ trinh. Trước khi cưới mẹ anh tôi đã đưa bà ấy lên núi Trúc vàng chơi cả năm rồi Anh có muốn tôi chỉ cho anh chỗ nào tôi ngả bà ấy ra không ?

Đến đây, chính đứa con trai há hốc mồm ra vì kinh ngạc. Giống như kẻ bị sét đánh ngang tai. Rồi khi đã hiểu rõ những lời lẽ ông bố vừa nói, anh ta tru lên như con lợn bị chọc tiết:

- Không đúng, ông đổ điêu cho mẹ tôi ! Tôi không tin !

- Tôi với mẹ anh đang tuổi xuân thì, đi củi đi rừng với nhau quanh năm, ai cấm nổi chúng tôi ? Việc gì chúng tôi phải nhịn thèm nhịn nhạt, việc gì chúng tôi phải chờ đợi cho đúng ngày đúng tháng, bề nào ăn hỏi rồi, hai gia đình kết giao rồi, sớm muộn chúng tôi cũng lên giường với nhau.

-.....

- Anh đắng họng không trả lời được vì anh quen giả dối. Bản thân anh chị nữa, anh chị chẳng đã no xôi chán chè với nhau cả năm trời trước khi tôi lo đủ tiền cưới hay sao ? Cái bận anh chị lén lút đưa nhau đi nạo thai dưới huyện, anh tưởng mắt tôi thong manh chắc ? Tiền mẹ anh dúi cho anh là tiền móc từ túi quần tôi, sao tôi không biết ? May mà còn đẻ được. Nhiều trường hợp nạo thai đứa đầu lòng gây vĩnh viễn vô sinh.

Vợ Quý đang há hốc mồm ra nhìn bố chồng tới đó bật khóc vì hổ thẹn. Hai đứa con gái đến tuổi cập kê lẫn cậu con trai cúi mặt xuống. Tất cả đều hành động dưới cây gậy chỉ huy của ông bố. Và lúc này, ván bài lật ngược, ông bố lẫn bà mẹ bị bóc mẽ khiến cho cả lũ con không dám ngửng đầu lên. Ông Quảng hạ giọng:

- Thôi nhé, đã sinh sự thì sự sinh. Đẻ ra anh nhưng từ khi anh mười ba tuổi, tôi đã hiểu anh là hạng người nào. Tôi đã cố tìm mọi cách xoay chuyển nhưng không lại. Chẳng ai chống được mệnh trời. Từ nay anh đừng bao giờ đặt chân đến cửa nhà tôi nữa. Chúng ta không còn là bố cũng chẳng còn là con.

- Đấy là tự ông muốn thế.

- Anh nhầm tưởng, người ta không thể muốn hay không muốn. Nhưng một khi đã xô đẩy nhau đến nông nỗi này, mọi sự ắt phải đổi thay.

-....

- Bây giờ, tôi hỏi điều cuối: Anh có muốn được độc quyền cúng giỗ mẹ anh hay không ?

-....

- Anh không dám mở mồm vì anh tiếc của. Làm người khó lắm anh Quý ạ. Mở mồm thì dễ còn mở bàn tay khó hơn nhiều. Lòng hiếu đễ nơi bọt mép ai cũng có cả. Nếu anh không muốn, tôi sẽ tiếp tục làm giỗ cho mẹ anh, như thường lệ. Bà ấy đã từng là vợ tôi và bây giờ vẫn là vợ đã chết của tôi. Bà ấy không có lỗi với tôi. Nhưng anh lại khác. Từ ngày này trở đi, tôi không có anh.

Đám người đứng đờ đẫn. Có thể vì sự việc diễn biến quá nhanh và họ chưa kịp hiểu hồi kết thúc. Có thể vì con người thường có thói quen nhận biết mọi sự theo những ước định đã tồn tại trong óc não họ. Những ước định cổ nói rằng tình huyết mạch là sợi dây không bao giờ đứt, rằng:

" Anh em có chém nhau cũng chém nhau đằng sọng, không ai chém nhau đằng lưỡi !" Và với những ước định ấy, họ tin rằng dù họ làm gì chăng nữa, ông Quảng cũng không thể đẩy họ ra ngoài ngưỡng cửa ngôi nhà này, ngôi nhà mà họ tin chắc đứa con trai duy nhất của họ mai đây sẽ là chủ nhân. Nhưng ông Quảng đã ném cây trượng trở lại góc nhà, nhìn họ và hạ giọng:

- Đi đi ! Đi khỏi đây !

Ông nói nhỏ, gần như thì thầm, nhưng trong giọng thì thầm ấy, sự đã thành, nước đã chảy, thuyền đã trôi.

Không có gì quay ngược lại.

***

Vợ chồng con cái nhà Quý kéo nhau ra về .

Khi bầu đoàn ấy riễu qua đường thôn, những cặp mắt láng giềng nép sau các khuôn cửa, các bờ cây, bụi trúc nhìn theo. Đời sống sơn dân vốn tĩnh lặng như mặt nước hồ dưới lũng sâu, bị cầm tù giữa bốn bề vách núi. Nếu một hòn đá ném xuống đó, ắt những vòng sóng lan toả không ngừng. Cũng như vậy, một sự kiện dù lớn dù nhỏ, nhưng động chạm tới những sợi dây thầm kín nhất trong tâm hồn con người, ắt trở thành một bãi chiến trường, nơi giao tranh của những ước định cổ xưa với những biến động của cuộc đời hiện tại. Xóm Tiều Phu mùa xuân năm ấy giống như một hoả diệm sơn mà chất dung nham phun lên không ngừng chính là câu chuyện xảy ra trong gia đình ông Quảng. Hoặc nói một cách văn vẻ hơn, Xóm Tiều Phu mùa xuân năm đó giống như lò lửa rừng rực cháy mà người ném than vào đó là một cô nàng xinh đẹp đến từ miền đất lạ, với cặp mắt đa tình và màu áo lụa xanh.

Giờ Mùi đã điểm, người làng đổ ra đường, đi chúc Tết người thân. Theo cổ lệ, mồng một dành cho những ai cùng huyết thống. Mồng hai mới tới họ hàng xa, láng giềng, bạn hữu. Mồng ba là ngày các chức sắc trong xã thăm hỏi nhau, chủ tịch đến nhà bí thư, bí thư đến thăm trưởng công an xã, công an xã đến chúc tết bí thư chi đoàn thanh niên hay bí thư liên hiệp phụ nữ... cả một hệ thống rường cột của cộng đồng. Năm nay, mọi sự dường như đảo ngược. Ngay buổi tối mồng Một, người ta đã ào ào kéo đến gõ cửa nhà cô Vui:

- Năm mới , chúc cô làm ăn thịnh vượng gấp năm gấp mười năm ngoái.

- Năm mới, chúc cô có thật nhiều cái mới, mới từ đầu xuống chân...

- Năm mới, chúc cô Vui vui cả năm, lúc nào cũng hớn hở tươi cười, ngày nào cũng là mồng một tết, tháng nào cũng là tháng giêng, mùa nào cũng là mùa xuân...

Chưa bao giờ, kể từ ngày cất tiếng khóc chào đời, cô Vui được hưởng những lời chúc đẹp như hoa như gấm vậy. Cũng chưa bao giờ cô được hưởng một sự trọng thị đến thế nơi dân làng. Muốn hay không, do thân phận của mình, cô luôn cảm thấy những con mắt xung quanh lục lọi thân thể cô, phán đoán, tọc mạch... dường như cái sự không chồng của cô là nguồn cơn cho mọi sự đàm tiếu và là một sự thất thoát không thể nào cứu chữa, giống như một thứ què cụt về tinh thần. Chưa Tết năm nào, khách đến gõ cửa nhà cô, cho dù nó rộng thênh thang, cho dù nó sáng choang và đầy đủ những thứ quà bánh hiếm... Năm nay, có lẽ trời đã để mắt nhìn cô, hoặc là, do người cha tận tuỵ của cô nơi chín suối ngày đêm phù trợ, số phận cô dường như bắt đầu thay đổi. Mở rộng hai cánh cửa, Vui tươi cười mời khách:

- Năm mới, chúc các vị có tất cả những gì mong đợi...

Người ta ùa vào nhà, không ai chờ đến lời mời thứ hai. Ai ai cũng ngầm hiểu rằng màn hai của tấn tuồng " Ngân Quảng " sẽ lại được tường thuật ở đây, nhưng lần này người đóng vai chủ đạo không còn là cô chủ.

Phần cô Vui, sau khi ngủ một giấc đẫy đà hơn chín tiếng, sức khoẻ tràn trề, tâm hồn phơi phới, cô thắp nhang mới trên bàn thờ cha, thay nước cho bình hoa đào rồi ngồi xơi hết hai khúc giò với chiếc bánh chưng đại. Khi dân làng kéo đến nhà, cô ở trong trạng thái tuyệt vời nhất của sự thoả mãn và vui vẻ, điều kiện tối ưu nuôi dưỡng lòng hiếu khách. Vì thế, không cần ai chèo kéo, cô lại thắp đèn măng-xông, thứ đèn dân quê chỉ dám dùng vào những ngày cưới xin hay ma chay, hoặc vào đêm hội làng. Ánh sáng lại tưng bừng rọi sáng khắp năm gian nhà khiến cho không gian long lanh, nồng ấm. Bà chủ đun nước pha trà, trưng ra tất cả các loại bánh mứt kẹo mua dưới phố. Trong lúc đó, khách đổ đến mỗi lúc mỗi đông. Không chỉ có những người đứng tuổi mà cả đám trai gái trong chi đoàn xã, lũ choai choai đi dự hội thi pháo tép, chọi gà và cờ bàn. Thành ra hai gian nhà đầy ắp người, giá có họp bình công, chia thóc cũng chỉ đông được đến thế. Cô Vui có ngay một lũ lính để mà sai mời nước, tiếp bánh kẹo cho mọi người. Còn cô, cô ngồi chĩnh chện ở bàn chính, với các bậc mày râu, những vị gia trưởng của những gia đình có máu mặt nhất trong xã:

- Tôi nghe láo nháo chuyện xảy ra rồi. Vậy là vị vểnh râu thắng cuộc. Tôi xin mở chai Lúa Mới chúc mừng.

Cô Vui lên tiếng để mở đầu đêm tụ họp. Nói xong, cô lấy chai rượu Lúa Mới trên bàn thờ xuống, cùng với gói lạc rang húng lìu nửa mặn nửa ngọt mua dưới phố:

- Có ai cần bánh chưng, giò nhắm rượu không, xin cho biết ?

- Không.

Chính ông vểnh râu trả lời:

- Hôm nay mồng một, chẳng ai còn dạ dày để chứa giò với bánh chưng nhà bà chủ. Nhưng lạc rang húng lìu với rượu Lúa Mới thì tuyệt. Không ai dám chê.

- Dân dưới phố sành điệu thật, cũng củ lạc, họ rang lên ăn cứ ngọt cuốn cả lưỡi, đưa bao nhiêu rượu cũng vừa. Lạc rang trong bếp nhà mình, ăn được một dúm đã thấy tắc họng.

- Họ có bí quyết. Đã mấy lần tôi mua thử húng lìu ở chợ huyện, đem về trộn lẫn đường và nước muối rồi ngâm lạc trong sáu tiếng đồng hồ, xong phơi khô mới đem rang, nghĩa là tôi làm đúng cách mọi người bầy cho nhưng rút cuộc cũng chẳng ra hồn, ăn củ lạc khét lẹt.

- Ôi chao, cứ nghe mà làm nổi thì còn ai sống được bằng nghề đầu bếp hay cửa hàng ăn nữa. Họ phải giữ bí quyết chứ. Người ta bảo rằng ở Hà nội, có những nhà làm giàu chỉ bằng nghề rang lạc, hoặc bán mía hấp mía nướng ướp hoa bưởi, hoặc chè đậu xanh nấu với vỏ quýt, gọi theo tiếng Tầu là Lục tào xá. Một nồi Lục tào xá nuôi bảy tám miệng ăn, lại còn xây ba tầng nhà gác.

- Nơi đất chật người đông người ta phải cạnh tranh ráo riết mới sống nổi, thế nên họ khôn hơn cánh dân quê chúng mình.

- Nói như ông, chẳng hoá cái việc ông Quảng nói tuột móng heo mọi sự giữa vợ chồng ông ấy với gia đình nhà Quý trưa hôm nay là khôn lắm hay sao ? Bởi muốn hay không, ông ấy cũng là người " nhà tỉnh " nhất trong đám dân xã này.

- Tôi biết ngay mà...

Ông vểnh râu cất tiếng cười sằng sặc:

- Chưa kịp ngồi nóng chỗ đã quay câu chuyện sang nhà ông Quảng ? Các vị sốt tiết quá. Không chờ chúng tôi uống cạn tuần rượu đầu được hay sao ?

Giọng ông ta đầy vẻ khiêu khích và ngạo mạn. Chị chàng đanh đá chịu không nổi lên tiếng đáp:

- Mọi người đã nhận là thua ông rồi mà ông vẫn chưa thấy đủ hay sao ? Lòng sĩ diện của ông không chỉ bằng cái bồ mà to bằng quả núi cơ đấy.

- Ồ thôi thôi ! Hai người này kị nhau như nước với lửa. May mà không kết đôi kết lứa.

- Thôi thôi, hạ hoả xuống cô mình ơi.

- Được rồi, tôi im mồm ngay đây.

Chị chàng đanh đá lên giọng rỗi, và ông chồng đang ngồi cùng bàn với ông vểnh râu từ tốn cười:

- Nhà tôi vốn tính trẻ con đấy thôi, cô ấy là người tốt bụng.

Cả hai gian nhà chợt im ắng trong tích tắc, rồi khi nghe thủng câu nói người ta nhất loạt cười ran lên như pháo nổ, bọn trai trẻ thì hò hét vỗ tay đôm đốp:

- Hoan hô, thật là một ông chồng tuyệt vời!

- Hoan hô, chúng tôi xin bầu ông là ông chồng điển hình, được thưởng phiếu "chồng ngoan "nhất xã. Này lũ con gái, chúng mày mở to mắt ra mà nhìn nhé. Cứ lấy ông ấy làm kiểu mẫu để kiếm lấy một tấm chồng.

Tiếng cười, tiếng trêu chọc vang lên bốn phía. Xưa nay, ít ai dám ngang nhiên khen vợ , nhất là khen vợ trước một đám đám đông. Quả tình, đó là một sự hiếm hoi đến lạ lùng. Nhưng mặc kệ sự ồn ào vừa ngợi khen vừa chế nhạo, ông chồng vẫn ngồi thản nhiên nhắp rượu. Khi đã tự nhận là râu cụp, hẳn mọi lời chê cười với ông chỉ như nước đổ đầu vịt. Hoặc có một sự nghĩ ngợi nào đó khiến ông lãng tâm ? Người ta đồ như vậy nên những tràng cười lắng đi khá nhanh và họ nhất loạt quay về phía người đàn ông vốn bình thường được coi là kẻ ít mồm mép nhất làng, xưa nay chưa từng tham gia vào các vụ tranh cãi xảy ra nơi công chúng:

- Hôm nay cóc mở miệng, thế nào trời cũng có bão to đây ! Nào, ông anh có điều gì muốn dạy bảo làng xóm, đầu xuân xin lên tiếng.

Người đàn ông đặt chén rượu xuống bàn, nhưng mắt vẫn không rời những gợn sóng li ti phản chiếu ánh đèn của thứ rượu mạnh:

- Nói bà con bỏ quá, sự việc nhà ông Quảng không phải là chuyện nhà tỉnh hay nhà quê. Ấy là sự giữa cha với con, cái sự có thể xảy ra với bất cứ gia đình nào dù ở nơi thâm sơn cùng cốc hay nơi đô hội. Cái sự ấy khiến ta phải ngẫm ngay đến thân phận mình.

Mọi người im lặng. Người ta đờ đẫn hồi lâu bởi không ai nghĩ ra chuyện ấy. Giờ có người day mặt đặt tên họ mới ngã ngửa người ra vì một sự thật sờ sờ trước mắt mà chẳng ai nhận thấy, giống như kẻ đi đường mất phương hướng cứ đâm sầm vào hòn đá tảng hay bước thẳng xuống vực sâu. Có cái sự mù loà ấy bởi người ta vốn coi những gì diễn ra trong gia đình ông Quảng như một tích chèo, một màn tuồng, một vở cải lương mà họ thi thoảng được xem với tất thảy sự háo hức tò mò và đinh ninh rằng ấy là chuyện của người khác. Rằng chuyện ấy chỉ dính líu đến những người môi son, má phấn, áo đính kim sa, đội mũ cánh chuồn, đi những đôi hia cổ, suốt đời hò hát múa may trên sân khấu.

Vậy mà giờ đây lại có người vạch ra rằng những tấn tuồng ấy có thể diễn ra trong chính ngôi nhà của họ. Lời cảnh báo ấy nào khác chi sét đánh ngang tai. Đám đông lặng đi như bị cấm khẩu. Người ta phải chờ cho qua giây phút choáng váng. Rồi sau một hồi tự trấn tĩnh, đầu óc mới bắt đầu sáng láng trở lại. Khi ấy, họ dò dẫm tìm xem trong câu chuyện kia có nguy cơ nào phương hại tới cuộc sống của chính mình.

- Cũng có thể là ông có lý Nhưng ông có phải ông Quảng đâu , tôi cũng vậy.

- Ông chẳng phải ông Quảng vì bà nhà còn chưa bạc tóc. Tôi cũng vậy, vì nhất định tôi sẽ ra đi trước vợ tôi.

- Ai cho ông ra đi trước tôi ?

Chị vợ lên tiếng ngay tức khắc:

- Ông phải chờ làm đám ma cho tôi rồi mới được lên đường.

- Ôi dào, rõ cái thói được chồng yêu chiều, quen xỏ chân lỗ mũi. Chúng ta không ai định được, vì sinh có hạn, tử bất kì.

- Đúng đấy !...

- Có thể là trong gia đình chúng ta, không có cảnh một đứa con trai phải lòng mẹ kế, cũng không có cảnh một đứa khác dẫn vợ con về gây nhiễu loạn trước bàn thờ gia tiên vào chính ngày mồng một tết. Nhưng có ai đảm bảo rằng tất cả những đứa con chúng ta sinh ra đều một lòng hiếu thảo và cư xử tử tế đối với cha mẹ chúng ? Tôi chẳng nói thì các vị cũng đã nhìn thấy từ lâu.

- Đúng thật ! Chẳng thiếu gì chuyện. Nhưng xưa nay, người ta quen che giấu đậy điệm , nhẫn nhịn mà nuốt nước mắt trong xó bếp. Các cụ dạy từ xưa rồi: " Nhà nào cũng có lọ mắm thối, phải biết lấy nùi mà đậy cho chặt, kẻo láng giềng ngửi thấy mùi hôi ".

- Nhưng cái sự "đậy cho chặt " ấy nhiều khi còn thối hơn cả quậy hố cứt lên mà ngửi. Mọi người có nhớ chuyện bà cụ Cửu chết đói hay không ?

- Nhớ !...Chuyện ấy làm sao mà quên được ?...

- Vậy ở đây có bà nào muốn chết đói như bà cụ Cửu hay không ?

- Ồ, trăm lần không. Chúng tôi tuy đàn bà óc bằng quả bưởi, nhìn không quá hai gang tay nhưng chúng tôi cũng là người chứ có phải loài gà vịt đâu mà ngu như vậy ?

- Bà cụ Cửu cũng chẳng phải người ngu. Chồng chết từ năm hai mươi chín tuổi, nhà tranh vách nát. Một mình bà ấy lên nương xuống ruộng, một mình đốt than, đi củi nuôi ong mà xây dựng cơ đồ. Người đảm đang như thế sao có thể là người ngu ? Chẳng qua bà cụ quá thương con, quá tin con, mà đứa con lại không thương nổi mẹ ; mọi sự đều nghe vợ, do vợ điều khiển, cho nên để mẹ phải chết đói.

- Sao bà cụ không làm toáng lên cho mọi người biết chuyện từ đầu ?

- Cơ sự là ở đấy ! Vì quá yêu con, vì đã trót nói với mọi người rằng con tôi tốt nhất cõi đời, con tôi thông minh, hiếu thảo...; nay sự tình tồi tàn đồi bại xấu hổ không dám mở miệng, đành nghiến răng cắn lưỡi mà chết thôi. Chẳng lẽ các vị không nhận ra rằng bà cụ đã làm đúng cái câu: " Đậy chặt hũ mắm thối lại hay sao ? "

- Ờ ờ... thế mà bây giờ tôi mới nghĩ ra.

- Còn tôi thì tôi chẳng dại.

Chị vợ ông râu quặp cao giọng:

- Nghĩ hay chẳng nghĩ thì cũng nên biết rằng nước mắt chảy xuôi chứ không chảy ngược. Mẹ cho con tiền thì con cười tươi như hoa nở. Con cho mẹ tiền thì mặt ủ mày chau, ruột đau như cứa. Thế nên tôi vẫn bảo ông nhà tôi rằng làm người phải biết lo cho con cái nhưng trước hết phải lo cho bản thân mình. Tôi không dám há miệng chờ sung, buông cả hai tay chờ lòng con hiếu thảo. Tiền của tôi tôi buộc thật chặt vào hầu bao. Khi nào vợ chồng tôi đau ốm, thong thả mở hầu bao ra mà rút.

- Nhà ông này tốt số thật, có con vợ biết lo xa.

- Con nuôi cha chẳng bằng bà nuôi ông. Đã là vợ là chồng thì xuống biển mò cua, lên non hái lá cũng phải keo sơn gắn bó.

- Đúng đấy, chẳng ai muốn nghi ngờ, nhưng con trai lại có con dâu, con gái lại còn con rể. Những kẻ ngoại lai đột nhập vào nhà, tốt khó kiếm mà xấu xa thì dễ thấy.

- Bây giờ tôi xin trở lại chuyện nhà ông Quảng: Các vị cho rằng việc ông Quảng nói toạc móng heo mọi bí mật vợ chồng ra là dại hay khôn ?

- Dại, trăm phần trăm là dại dột. Việc gì không khảo mà xưng. Vả lại, bà ấy cũng chết rồi. Ai lại nỡ nói ra cái bí mật của người đã khuất ?

- Chẳng dại chẳng khôn, ấy là sự buộc phải làm. Bởi chính đứa con trai gây sự trước.

- Phải, khi rơi vào thế cùng ắt xảy ra những việc cưỡng tâm. Ông ấy cũng chẳng sung sướng gì khi buộc phải nói ra mọi sự .

- Tôi không thân với nhà ấy, nhưng tôi là thông gia với em trai út của ông Quảng. Ông này bảo tôi rằng từ khi Quý còn nhỏ, ông Quảng đã nói vụng với mấy ông em rằng sau này ông ấy sẽ không nhờ cậy được đứa con đầu. Nhưng ông ấy sẽ làm đầy đủ nghĩa vụ người cha để tương lai đứa con được tốt đẹp. Mọi người đều thấy rằng ông Quảng đã làm đúng những điều đã nói . Chính Quý bỏ trường trung cấp lâm nghiệp về làng làm ruộng chứ ông ấy đã tìm mọi cách cho nó được học lên.

- Không chỉ trường trung cấp lâm nghiệp đâu. Trước đấy, ông ta đã lo cho nó vào trường cơ khí luyện kim nhưng thằng Quý học không nổi. Óc đã đặc có đánh gậy sắt mà lèn chữ vào đầu cũng chẳng xong.

- Thế nhưng nó hách ra phết. Lại lắm mưu thâm nữa.

- Mưu thâm là một nhẽ, học thông minh lại là một nhẽ ; như cây cà gai với cây rau cải, làm sao lẫn được với nhau ?

- Ờ, ông bố sáng ngời ngời mà sao cậu con trai xấu mã làm vậy ? Anh ta giống hệt mẹ nhưng lại không được tươi đẹp như bà ta. Thật lạ lùng, cùng một đường nét nhưng cậu Quỳnh đẹp trai lồng lộng còn ông anh cả thì thậm xấu. Người đã loắt choắt, mắt lại sâu hoăm hoắm. Nhìn vào mắt anh ta cứ như nhìn xuống vực thẳm, chẳng biết đâu mà dò.

- Người ta bảo mắt như thế là lòng dạ nham hiểm lắm. Nhưng có nham hiểm thì cũng nên đấm đá thiên hạ chứ sao lại quay vào đánh bố đẻ ra mình ?

- Ờ, tôi cũng tự hỏi như thế. Bởi người mù trong xã này cũng biết được là từ khi đẻ Quý, ông Quảng chính là người lo toan cho anh ta hết thảy, từ việc học hành cho đến việc dựng vợ gả chồng, xây nhà , sắm sanh áo quần vật dụng. Mà không chỉ lo cho con, ông ấy còn lo cho cả lũ cháu gái lẫn trai.

- Ông ấy hái ra tiền.

- Hái ra tiền mà tính ki bo, bỏn xẻn thì cũng đừng hòng rút được tiền ra khỏi túi.

- Giúp được người dưng thì còn tiếc gì con ? Nhưng tôi cho rằng anh Quý ỷ thế con trai trưởng, mà theo tục truyền, con trai trưởng là người được quyền thừa tự vì phải lo ma chay cho bố mẹ. Một khi bố mẹ khuất núi phải lo cưới xin, dựng vợ gả chồng cho các em ."Quyền huynh thế phụ ",câu ấy vốn có tự bao nhiêu đời.

- Thế phụ chỉ là khi phụ chết... Nhưng ông Quảng đang còn sống nhăn nhăn, lừng lững như cây cột, đứng với con trai trông còn bảnh mã hơn mười lần... Vậy tính chuyện "thế phụ" còn quá sớm.

- Đúng, vấn đề chính là ở đấy !

Ông râu quặp thong thả buông từng lời, như ông giáo làng đọc đoạn kết một bài văn:

- Anh con trai tính chuyện bố sẽ chết, sẽ phải nhờ cậy đến mình, nào ai đội mũ mấn khăn xô, nào ai chống gậy lăn đường, nào ai rước kèn rước trống, nào ai lo cỗ khao vong. Sau tang ma đến giỗ bốn mươi chín ngày, sau bốn mươi chín lại đến ngày thứ năm mươi ba rước vong lên chùa tụng kinh. Rồi đến giỗ thứ nhất, giỗ nhị, giỗ tam. Lại đến lễ rửa xương cốt, đưa vào tiểu sành. Sau đấy mới xây mồ vĩnh cửu. Tất cả những thủ tục cho một người chết quá nhiêu khê. Ai cũng lo khi chết đi con cái không nhìn ngó tới nên dù ngậm đắng nuốt cay cũng phải chiều lòng chúng. Và do nỗi sợ hãi bị bỏ bê làm ma đói, người ta đành muối mặt làm ngơ trước nhiều sự đồi bại, tàn tệ trong nhà. Sự cư xử giữa cha mẹ với con cái thường chỉ để phô bầy cho hàng xóm láng giềng nhìn thấy. Còn thực tế ra sao hiếm có người dám bộc bạch một cách chân tình.Vì thế mới có câu ca:

" Sống thì con chẳng cho ăn,
Đến khi mẹ chết làm văn tế ruồi. "

Câu ca ấy có từ bao đời không ai biết. Như vậy, cũng đã từ bao nhiêu đời, nhiều bậc cha mẹ phải nghiến răng chịu đựng những cung cách cư xử bội bạc, bất nhân để hòng chết đi được chôn cất cho hẳn hoi. Con cái, trừ những đứa hiếu thảo, cũng thường lợi dụng tâm lý này để sách nhiễu và áp bức bố mẹ. Nhìn vào cảnh nhà ông Quảng hôm nay đủ thấy rõ. Nhưng vấn đề chính của gia đình nhà này là đứa con trai nghĩ tới cái chết hơi sớm. Người già đứng trước cái chết thường run sợ, thường mất hết lòng tự tin cũng như quyền uy với con cái. Hơn nữa, Quý lại đang giữ ghế chủ tịch xã, vừa có vai vế với làng xóm, vừa có quyền huynh trưởng trong gia tộc. Nhưng ông Quảng chưa thuộc loại già dù ông ta đã sáu mươi mốt tuổi. Ông ấy đang còn lực lưỡng ; mắt sáng như sao, óc tính nhanh hơn điện, tay hái ra tiền. Ông ấy chưa nghĩ đến cái chết, ông ấy đang còn thích sống, đang tính chuyện chăn gối với người vợ mới. Thế nên anh con trai không ép được ông ta. Ông ta đuổi thẳng cổ cả bầu đoàn thê tử của Quý ra đường. Vậy là đứa con đi nhầm một nước cờ. Nước cờ nhầm không cứu vãn được. Tôi nghĩ như vậy, các vị cho là đúng hay sai ?

- Trăm phần trăm chính xác.

- Đúng, tôi tán thành. Người ta bảo khi cóc mở miệng, không phải chuyện tầm phào, cũng chẳng phải trò giải trí.

- Đời người vốn dĩ như vậy. Khi nhìn nghiêng, tưởng là chuyện vui đùa chơi dỡn ; đến lúc nhìn thẳng lại hoá việc tang thương, chanh xát dạ muối xát tim.

- Thế mới biết, sống khó thật.

- Ngoảnh đi ngoảnh lại, tuổi già đã xồng xộc kéo tới. Không phải sau lưng mà lù lù ngay trước mặt mình.

Mọi người im lặng. Cả hai gian nhà đột nhiên im phăng phắc như chùa ngày dưng. Bởi lần đầu tiên, người ta mới dám nhìn thẳng vào nỗi sợ hãi của mình. Nỗi sợ hãi ấy vẫn chung sống với họ đời đời kiếp kiếp, như bóng với hình, nhưng không ai dám gọi tên, không ai dám duy danh định nghĩa. Người ta lảng tránh nó, người ta đậy điệm nó dưới đủ mọi duyên cớ, nào danh dự gia đình, nào tình huyết mạch thiêng liêng, nào bổn phận người làm cha làm mẹ, nhưng thực chất, nó ẩn nấp trong những xó xỉnh tối tăm nhất của tâm hồn. Còn những đứa con hỗn hào, trơ trẽn không ngần ngại mà lôi thẳng cổ nó ra, bêu riếu giữa thanh thiên bạch nhật. Chẳng ai bảo ai, nhưng người ta vẫn nhớ từng lời từng chữ vừa chua ngoa vừa cay nghiệt của cô con dâu bà cụ Cửu:

"Bà tưởng có mẹ già nhẹ nợ lắm hay sao ? Chúng tôi được hưởng nhà cửa ruộng vườn của bà thật, nhưng bà ốm, người ta phải mua thuốc cho bà, bà chết, phải làm ma, cỗ lên cỗ xuống, rồi còn phải rửa xương cốt, thay hòm gỗ sang tiểu sành, mọi thứ đều đòi tiền cả đấy, chẳng phải cứ vỗ tay xuông mà xong đâu."

Đã đành là chẳng phải nhà nào cũng có cô con dâu độc ác, tham tàn như con dâu bà cụ Cửu nhưng cuộc sống vốn nghiệt ngã, muốn hay không cũng phải nhìn rõ sự thật ấy. Nhưng trái tim con người thường từ chối chấp nhận sự nghiệt ngã. Chẳng ai muốn tin vào cái sự đã xảy ra từ đời nọ đến đời kia, từ châu thổ đến núi cao, từ sơn thôn sang vùng chài lưới. Dẫu sao chăng nữa, trái tim con người cũng cần một chút nước cam lồ. Những đứa con là từ lòng ruột chúng ta mà ra, lớn lên bằng máu và sữa của cha mẹ, nào ai muốn tin có ngày chúng đưa chiếc bát mẻ cho mình ăn cơm ?

Sau hồi yên lặng, một ông cất tiếng:

- Con cái cũng là của trời cho, cha mẹ sinh con trời sinh tính. Xưa nay ai cũng cậy con trai. Vậy mà nội trong huyện này, tôi không dám nói xa hơn, đã có ông bố nào nằm xuống được làm ma khang trang hơn là cụ Đô Vàng ?

- Cô Vui là trường hợp đặc biệt, kể làm gì ?

- Một cha một con, mà chết được xênh sang áo gấm. Có người đẻ tới bẩy đứa con, suốt đời làm quần quật như trâu, khánh kiệt gia tài để nuôi lũ con khôn lớn. Vậy mà lúc nằm xuống còn phải nghe chúng nó cãi nhau xem mỗi đứa góp bao nhiêu đồng để lo thuê xe tang. Ở đời này, người ta hơn thua nhau là ở phúc đức. Không ai tính được từ sáng đến tối. Chẳng ai định liệu nổi phút xuống cửa mồ. Thôi, rót rượu đi các ông ơi. Ngày xuân con én đưa thoi. Chúng ta cùng cạn chén để mừng năm mới, nào cô chủ, cạn chén với chúng tôi.

Cô Vui lẳng lặng cạn chén với các ông. Không ai nói gì nữa. Dân làng hăm hở đến nhà cô để đàm tiếu chuyện bố con ông Quảng nhưng sau rốt, câu chuyện ấy lại động chạm tới những uẩn khúc trong cuộc đời riêng tư của từng người. Và những uẩn khúc của lòng người thường gợi đến mùa đông của cuộc đời hơn là mùa xuân. Cô bí thư chi đoàn đọc thấy điều ấy. Sau chầu rượu cô yêu cầu bọn thanh niên hò hát để khoả lấp đi không khí trầm tư. Tuy nhiên, khách khứa vẫn kéo nhau tốp năm tốp ba ra về. Cô chắc họ sẽ tiếp tục câu chuyện dưới mái nhà của họ, giữa những cặp vợ chồng trung niên cũng như những ông bà tóc đã ngả muối tiêu bởi câu chuyện này chính là rường cột của kiếp người, nơi hạnh phúc lẫn khổ đau bó kết lại như hai sợ chỉ xe xoắn thành sợi dây định mệnh. Có lẽ cuộc xô xát giữa cha con ông Quảng là hồi còi báo động, khiến cho mọi gia đình phải lường đến những phong ba rình rập trước mỗi mái nhà, giống như tiếng kêu thét của loài chim biển khiến cho những con tầu phải dè trước những vịnh đá ngầm hoặc những cơn bão bất thần trong đại dương tối đen phía trước.

Lũ trai trẻ cũng ra về ngay sau đó. Cô Vui ngồi trước bàn thờ ngắm bức ảnh ông Đô, thì thầm:

" Cha ơi sống khôn chết thiêng xin trở về chỉ đường dẫn lối cho con ".

Ông Đô nhìn thẳng vào mặt con gái với cái nhìn răn đe xưa nay cô chưa từng thấy:

" Mình đã đi sai nước cờ. Hoàn toàn sai. Giờ phải tính cách gỡ "

Cô thầm nghĩ, nhẩm tính lại những hành động của mình. Cô đã lặn lội về tận làng Khoai để điều tra gia cảnh nhà cô Ngân và tình sử của cặp vợ chồng chênh lệch này. Cô là người duy nhất biết đầu cuối mọi sự và cũng đương nhiên là người tường thuật lại cho Quý cũng như dân xã. Rồi người ta sẽ hỏi, vì động cơ nào mà cô hăm hở đến như vậy? Không thể vì ngoan ngoãn nghe lệnh của ông chủ tịch, bởi xưa nay cô vốn chẳng là người ngoan ngoãn với bất cứ ai. Cô chỉ làm mọi việc theo chủ ý của riêng cô. Như vậy thì cái lập luận:

" Bí thư thanh niên hành động theo chỉ thị của chủ tịch xã "

ắt chẳng lọt tai mọi người. Rồi giống như những người thợ đào giếng khoan sâu xuống những vỉa đất bên dưới để tìm mạch nước, dân làng sẽ moi đến tận cùng lý lẽ để tìm ra cái duyên cớ đã khiến cô bỏ công bỏ của thuê xe về tận làng Khoai. Rồi họ sẽ tìm thấy, chẳng khó khăn gì. Và lúc ấy, mũi dùi sẽ quay lại phía cô:

" Mới từ tối hôm qua đến tối hôm nay, tình thế lật nhào. Nào ai tính trước, một khi nước cờ thay đổi ?"

Cô buông tiếng thở dài. Đêm qua, giao thừa, cả làng nghe cô kể chuyện, vui cười hỉ hả nâng chén rượu lên đặt chén rượu xuống, và tâng bốc cô lên tận mây xanh. Bởi cô thoả mãn cơn tò mò của họ. Bởi họ coi câu chuyện nhà ông Quảng như tấn tuồng mua vui cho ngày xuân. Tối nay, màn hai vở tuồng diễn ra mau lẹ, nhưng nó không còn là chuyện riêng của nhà ông Quảng mà nó gợi đến cái sự "tình cha con ", là sợi dây leo quấn chằng chịt vào những thân gỗ lớn, chính xác theo cái nghĩa mà các tiền nhân thường răn dạy:

" Rút dây động rừng "

Cô lại bất giác thở dài lần nữa với ý nghĩ rằng mình có khôn mà chẳng có ngoan, rút dây mà không tính tới việc động rừng. Giờ, mọi sự đã qua, không cách chi vớt vát lại. Sau một lát bần thần, cô chợt nhớ tới câu cha cô vẫn dạy:

"Giơ tay mà hứng nước trời, hứng sao cho đủ những lời thế gian ".

Câu phương ngôn sáng suốt ấy khiến cô lấy lại được bình tĩnh. Cô tự an ủi mình:" Kệ sự đời. Hơi đâu mà lo hứng nước trời mưa ? "

Dẫu vậy, Vui vẫn luôn luôn là con gái của cha cô, ông Đô Vàng, người có óc thực tế. Cô biết rằng cô có thể mặc kệ những lời đàm tiếu của dân làng vì vốn dĩ xưa nay, lời đàm tiếu vẫn quẩn quanh như khói bếp trên mái nhà bất cứ kẻ nào có máu mặt hoặc có những dị biệt với làng xóm. Nhưng cái sự cô không thể bỏ qua, chính là ông Quảng. Từ lâu cô biết đó là một người hảo hớn, rất tốt bụng và hào phóng với láng giềng nhưng cũng không ngán rút gươm ra trước kẻ nào có ác tâm. Cho dầu đã thả trí tưởng tượng bay bổng xung quanh người đàn ông râu rậm ấy, cô vẫn không hình dung được rằng ông ta có thể thản nhiên nói toáng lên cho con cái lẫn bốn bên láng giềng nghe cái chuyện: "Trước khi cưới mẹ mày cả năm tao đã dẫn bà ấy lên núi Trúc vàng..." Đã dám ăn nói bỗ bã thế, ngán gì mà ông ấy không chửi thẳng vào mặt cô một cách sỗ sàng cay độc khi biết chuyện cô lần mò về tận làng Khoai ?... Chỉ tưởng tượng đến nông nỗi ấy, toàn thân cô đã nóng bừng , mặt chín nhừ như phải bỏng. Mồ hôi toát ra dưới đám tóc đỉnh đầu lẫn hai bên thái dương, cô nhìn ông Đô và bật thành lời:

- Cha ơi, cha khôn thiêng xin chỉ đường mách lối cho con.

Ông Đô không nói năng gì, vẫn chiếu vào mặt cô cái nhìn nghiêm nghị. Cô Vui chợt nhớ ra rằng trong đám đông lúc nãy có ai đó cất tiếng bình phẩm:

- Ông bố sáng ngời ngời mà sao cậu con xấu mã làm vậy ?

Đúng thật, từ xưa cô chưa bao giờ nghĩ đến điều ấy. Rõ ràng là Quý đứng cạnh ông Quảng giống như hai loài cây khác giống mọc kề nhau. Ông bố rõ ra dáng trượng phu. Anh con hoàn toàn ngược lại. Không những còi cọc, mặt tối như hũ nút, cái nhìn lại lén lút nham hiểm. Vui chưa từng thấy Quý nhìn thẳng vào mặt ai. Đôi mắt anh ta chìm sâu dưới hố mắt, lúc nào cũng như có bóng mây vương bên trên, và cái nhìn, nếu không xiên sang một bên thì thường là hạ thấp xuống, dường như lúc nào anh ta cũng lục tìm một thứ gì đó dưới mặt đất.

" Vậy mà anh ta đã làm chủ tịch xã mấy khoá liền. Và lần nào cũng đích thân bí thư lẫn chủ tịch huyện về làm việc với chi bộ xã."

Một ý nghĩ bỗng vụt qua óc cô. Và cô bật tiếng kêu:

- Thôi chết rồi ! Thế mà không ai biết !

***

Sáng mồng hai tết, cô Vui cưỡi xe đạp lên thẳng phố huyện. Ở đó, cô quanh quẩn hồi lâu mới tìm được một cửa hàng bán chè chén và bánh kẹo, chắc vì quá túng bấn, đã phải ra vỉa hè để kiếm mấy đồng bạc lẻ của đám người chơi xuân. Bình thường, một chén nước chè giá năm chục, hôm nay, bà chủ tính đắt gấp năm lần, tức hai trăm rưỡi, và không có quyền mặc cả vì đang còn là "ba ngày tết". Phố xá vắng ngơ vắng ngắt, chỉ có lũ trẻ chơi đập pháo hai bên vỉa hè. Để lấy lòng chủ quán, cô Vui uống liền ba chén nước chè, lại ăn thêm hai quả chuối tiêu chín nẫu , thứ chuối nhà chủ đã để từ tuần trước giao thừa. Rồi cô đưa cho bà chủ ba ngàn, miệng nói:

- Vừa trả tiền bà, vừa mừng tuổi năm sớm...

- Cảm ơn cô...

Bà chủ ngoác mồm cười đến tận mang tai trước cô khách nông thôn mà xộp hơn mười lần dân phố huyện:

- Cô xởi lởi thế này, trời cho cô tha hồ lộc ăn lộc để..

- Cảm ơn bà...

Cô đáp lại với vẻ ôn hoà. Sau đó, cô gợi ý nhờ bà đưa đường đến nhà chủ tịch lẫn bí thư huyện:

- Xã chúng tôi xa xôi lắm, nhiều vấn đề khẩn cấp chưa giải quyết được trong năm nên phải lên huyện ngay đầu xuân để lo liệu...

- Việc khẩn mấy cũng phải chờ mồng sáu cô ạ. Tôi bán hàng ở đây hơn chục năm rồi, khách uống nước chè nhà tôi đa phần đến từ các xã vùng xa như cô, để lo liệu việc công cũng như tư. Chẳng ai dám bước vào dinh chủ tịch trước ngày mồng sáu.

- Tôi không có ý định làm phiền các cấp lãnh đạo ở nơi công sở, nhưng xã chúng tôi có chút thổ sản, muốn tặng các cán bộ cấp huyện để tỏ lòng biết ơn trước sự quan tâm của đảng và chính quyền.

- A... a... Tôi hiểu rồi.

Bà chủ quán cười to hơn nữa, rồi đưa mắt quan sát cô khách, lẫn chiếc xe đạp cô dựng bên vỉa hè. Cô Vui nhanh trí đáp:

- Tôi chỉ có nhiệm vụ đi xác minh địa điểm thôi. Mai hay mốt đích thân chủ tịch xã sẽ mang tặng phẩm lên.

- À ra thế...

Không chờ bà chủ quán lục vấn thêm, cô rút ra tờ giấy bạc năm ngàn đồng, đặt vào chiếc đĩa đựng thuốc lá:

- Gửi tiền bà , để đền bù lại thời gian bà tốn phí vì tôi.

- Cảm ơn cô.Tôi sẽ đưa cô đi ngay.

Bà chủ trả lời tắp lự, đoạn quay vào ngõ, gào:

- Con Huệ đâu, ra coi hàng cho mẹ. Mau lên !

Chưa có tiếng trả lời, bà lại gào lên tiếp:

- Huệ ! Ra coi hàng, Huệ !

Bà gọi dồn dập, tức tốc vì rõ ràng, có ngồi bán chè chén từ giờ tới nửa đêm bà cũng không thể kiếm được một món tiền lớn như vậy. Gần như tức khắc, một đứa bé gái chừng bảy tám tuổi từ trong ngõ nhếch nhác chạy ra, chân loẹt quẹt đôi dép cũ:

- Con đây. Mẹ đi đâu ?

- Đi có việc, không phải hỏi.

Đứa bé ngồi vào ghế phía sau chõng hàng, đưa mắt tò mò nhìn cô khách to lớn như hộ pháp đang dắt chiếc xe đạp xuống đừờng và mẹ nó leo lên ngồi phía sau, ôm chặt lưng cô ta hệt một con nhái bén ôm lấy quả dưa hấu.

Như thế, cô Vui đã đến tận nhà bí thư lẫn chủ tịch huyện. Sau cuộc đi, mồ hôi cô đổ ướt hết sống lưng. Giờ, hai năm rõ mười điều cô nghi ngờ là chính xác. Quý ngồi lên được ghế chủ tịch xã chính là nhờ bàn tay lèo lái của ông bố chứ chẳng phải vì phép thánh ; càng không phải năng lực của chính anh ta. Cô bí thư chi đoàn giương mắt trân trân nhìn hai ngôi nhà của hai vị lãnh đạo cấp huyện, nhà nào cũng hai tầng, bốn gian tầng dưới ba gian tầng trên, chừa một khoảng sân trời cỡ ba chục mét vuông vây quanh bởi hàng lan can bằng thép hàn để chủ nhân có thể ngồi uống trà ngắm trăng những đêm cao hứng. Nhà nào cũng có cầu thang bên trong lẫn cầu thang lộ thiên dẫn lên sân thượng. Nhà nào cũng có hàng hiên rộng bên dưới với đường diềm chân tường đắp sỏi trắng. Nhà nào cũng có hình đôi phượng chầu bằng xi-măng đổ cốt thép gắn trên mái ngói. Kiểu trang trí kiến trúc thời thượng. Kiểu nhà ông giáo làng Khoai.

Khi cô về làng trời đã ngả chiều. Tiếng trống đánh rộn ràng từ bãi vật vọng đến. Sợ người làng bắt gặp mình trong tâm trạng rối ren này cô đi vòng phía sau dãy núi trúc. Đường vòng khá xa vì có đến hơn một chục trái núi nhỏ mọc thuần các loại trúc kết thành chuỗi như chuỗi hạt trai. Lối mòn ghập ghềnh khiến chiếc xe của cô nhảy chồm chồm như ngựa vía. Nhưng quả tim cô còn nhảy chồm chồm hơn cả con ngựa sắt khi cô đạp xe ngang qua chân núi Trúc Vàng , trái núi cao nhất trong dãy, mọc dày đặc thứ trúc vàng óng. Màu vàng ấy là màu vàng của dây tơ hồng trên các dậu cúc tần vườn quê. Màu vàng ấy đổ trong nắng chiều như muôn ngàn sợi vàng dát hoặc như thứ tơ tằm thượng hạng. Màu vàng ấy óng ánh thứ óng ánh của lầu vua phủ chúa. Cô đưa mắt nhìn rừng trúc đượm vàng ngày xuân, nghĩ tới một người đàn bà đã từng được trăm lần ân ái với người yêu trong đó, giờ đã nằm yên dưới mộ. Liệu bà ta có quay về đây để tìm lại mùa xuân cũ hay chăng ? Rồi cô lại nghĩ tới phận mình, vì sao chẳng một ai đưa cô tới khu rừng đó ? .Giấc mơ thầm lén của cô đã tan thành mây khói, và không biết từ đây cho tới lúc xuống mồ, có người đàn ông nào chìa bàn tay cho cô mà nói:

" Anh yêu em... " Hoặc là:

" Vui ơi, từ nay chúng ta sẽ sống cùng nhau !"

Cô đặt chân vào ngõ lúc trời xẩm tối. Chắc chắn không ai nhìn thấy vì cô phóng xe vào tận giữa sân. Cô gài thật chặt then cổng. Sau đấy, cô mở khoá cửa, lao vào nhà. Không kịp thay bộ quần áo phủ dày bụi đường, cô vật mình xuống đống chăn bông mà khóc. Cô khóc hối hả, nức nở, giàn giụa. Cô khóc thành nhịp, hộc lên từng hồi như loài lợn rừng bị trúng thương. Cô khóc no nê, ngập ngụa, không kìm nén. Cô khóc điên cuồng. Cô khóc sầu thảm hơn cả ngày ông Đô chết. Cô khóc, với tất cả nỗi bi thương đam mê không hay biết, giống như đứa bé đói ăn ngấu nghiến miếng bánh mà người ta đưa cho. Có thể là, với ngần ấy nước mắt được trút ra, tâm hồn cô sẽ vơi nhẹ.

Sáng hôm sau, mồng ba tết, cô ăn vận chĩnh chện, đàng hoàng, vác một cành mai lớn đến nhà ông Quảng. Cô tính không sai, bởi vườn nhà ông Quảng chỉ có đào thắm chứ không có đào phai hay mai trắng. Mai trắng là giống cây khó gây lại phải dày công chăm sóc. Ông Quảng đi vắng quanh năm, không thể trồng nổi thứ mai này. Trong làng, ối người trồng mai nhưng đa phần là giống mai vàng, còi cây, hoa nhỏ. Chỉ riêng vườn nhà cô là có mai trắng, thứ mai lớn, cành toả đều, hoa dày chi chít. Ấy là thứ mai Hoàng đế, ông Đô đã về tận làng trồng hoa Nhật Tân xin giống. Hồi còn sống, ông giữ cây mai như giữ vàng. Ông chết rồi, cô Vui vẫn tiếp tục chăm sóc nó như cũ, dù cô chẳng phải là người say hoa hoặc biết thú thưởng hoa. Nhưng ông Đô là vị thần duy nhất đối với cô, những gì cha cô đã muốn đã làm, cô phải tiếp tục bằng mọi giá... Cô chẳng ngờ vào lúc nguy nan này, cây mai trắng đã trở thành phao cứu hộ cho mình:

"Nhà lão ấy chẳng thiếu thứ gì, ngoài một cành mai trắng. "

Suốt đêm cô trù đi tính lại. Trời vừa sáng, cô vác cưa ra vườn, thiến cành mai lớn nhất, sai cả nụ lẫn hoa đem làm vật tế.

Khi cô đến ngõ nhà ông Quảng, khách khứa chưa có ai. Cô Ngân và bà Tư móm đang ngồi vặt lông gà giữa trước cửa bếp. Thấy cô, cả hai người cùng đứng lên chào. Cô Ngân mỉm miệng cười:

- Chào chị, năm mới xin mừng tuổi chị.

Bà Tư ròn rã hơn:

- Năm mới, rồng đến nhà tôm, năm nay thế nào cũng có sự tốt lành...

Cô Vui cố gắng nhìn vào đôi mắt đen như ngọc huyền của bà chủ mười tám tuổi. Cô cũng tươi cười cất tiếng chúc tụng dù tim đánh thì thòm trong lồng ngực. Rồi bà Tư móm cao giọng gọi:

- Cậu ơi, có khách đến nhà !

Nói xong, bà giục:

- Mời cô lên nhà trước, mợ cháu tôi đang giở tay.

- Xin phép các vị.

Cô đáp, đoạn bước lên bậc tam cấp. Ông Quảng đứng chờ cô ngay khuôn cửa trong bộ đồ lụa nâu cổ truyền.

" Lão già chơi trội ; ăn diện kiểu khác đời... "

Cô cúi đầu xuống chào chủ nhân theo kiểu các cán bộ dưới phố, thầm đánh giá cách phục sức của người anh hùng. Lẽ ra, lấy vợ trẻ, người ta phải diện sơ-mi trắng hoặc màu trứng sáo, tệ nhất cũng phải áo bu-dông, quần tây thẳng ống, cho ra dáng thị thành và trẻ trung. Đằng này, ông Quảng lại trưng bộ đồ lụa tơ tằm của các bậc lão trượng, rộng thùng thình. Thêm nữa, ông ta không cắt tóc ngắn mà để tóc dài dưới vai rồi buộc lại sau gáy bằng một sợi dây chun theo đúng kiểu tóc của các hiệp khách giang hồ thời trước. Thêm nữa, ông ta để râu quai nón, mớ râu bao quanh hàm đen nhánh, rậm như cỏ vực và xoăn như râu người phương tây. Điều lạ lùng là trong thứ y phục ấy có vẻ như lỗi thời ấy, tất thảy những cơ bắp cuồn cuộn trên ngực, trên vai ông ta nổi lên rõ mồm một. Và trong thứ y phục ấy, trông ông ta đẹp ngời ngời, một sắc đẹp của bậc trượng phu, không chỉ riêng Xóm Tiều Phu mà khắp huyện này khó có thể tìm được...

Vui bất giác gò mình, lùi lại một bước vì hơi thở của ông Quảng từ phía đối diện đang phả vào mặt cô, như làn gió nóng của một mùa hè oi nồng, một mùa hè tích tụ biết bao mây giông và sấm sét.

- Chào cô, năm sớm.

- Năm sớm chúc ông mọi sự tốt lành.

Cô đáp lời rồi đặt cành mai đồ sộ tựa vào chiếc tủ chè kê sát bàn thờ. Ông Quảng đưa mắt nhìn cô:

- Mời cô ngồi. Nhà tôi có trà vườn ướp nhài và ướp bạch cúc. Nhà tôi cũng có trà Tuyết Sơn lẫn trà Hồng Đào, cô thích loại nào ?

- Đã là trà nhà ông, chắc thứ nào cũng tốt. Xin ông cứ tự tiện.

Cô trả lời, nhận ra giọng nói của mình run rẩy. Chưa kịp hiểu vì sao , cô đã thấy một cơn nghẹn ngào dâng lên họng. Một thứ nghẹn ngào lạ lùng và bất khả kiềm chế như dòng lũ, cuồn cuộn tràn lên cánh đồng tâm hồn cô, cánh đồng mênh mông hoang vắng. Vui sợ hãi thầm nghĩ:

" Hỏng thật, sao bỗng dưng mình lại đổ đốn ra thế này ? "

Cô tự trấn áp một cách dữ dội nhưng không mảy may hiệu lực. Vui vội vã cúi gò lưng xuống sửa chiếc quai hậu của cặp xăng-đan, cố tình dán mắt vào những ngón chân được kì cọ sạch bong nổi bật trên màu nhựa xanh diệp lục:

" Hãy nhìn xem ! Hãy nhìn xem ! Ta không có những bàn chân đen đủi như chân bọn đàn bà, con gái Xóm Tiều Phu ".

Cô thầm lặp đi lặp lại câu nói đó nhiều lần và niềm kiêu hãnh khiến cô dần trở lại bình tĩnh. Chẳng riêng gì đàn bà, con gái Xóm Tiều Phu mà ngay đàn bà, con gái khắp huyện, hoặc khắp tỉnh này cũng không thể có được cặp chân trắng nõn như chân cô. Cho dù là người hay lam hay làm, Vui bảo vệ nước da lẫn đôi bàn chân như thiên hạ giữ con ngươi trong mắt. Bất kể mưa hay nắng, hè cũng như đông, cô đều đi giầy vải đế cao-su và mang tất sợi dày, hoàn toàn giống như người ngoại quốc. Ấy là có lần, một phái đoàn chuyên gia Liên xô về thăm huyện. Vui nhìn thấy nước da trắng nõn lại mỏng như giấy dó của họ. Cô cho rằng sở dĩ họ giữ được nước da như thế một phần là do quanh năm họ mang tất, mang giầy. Ngày ấy Vui mới mười ba tuổi, nhưng ý thức về nhan sắc đã sớm ám ảnh cô. Kể từ đó, cô đòi ông Đô sắm giầy sắm tất cho mình. Cũng từ đó, mang giầy mang tất với cô trở thành thói quen như cơm ăn nước uống. Giữa một xứ sở mà tất thảy dân cày đều đi chân đất hoặc dép mỏng, sự việc một người con gái quanh năm mang tất mang giầy là sự du nhập một phong tục nước ngoài mà thiên hạ cho là quái gở. Bởi mùa hè nhiệt đới kéo rất dài, trong mùa nồng nực ấy, mang giầy cao cổ lẫn tất sợi là một cực hình. Mồ hôi sẽ ngấm rất nhanh vào các loại sợi vải làm bốc lên mùi khó ngửi. Mặt khác, việc đó cũng giống như sự thách thức dư luận mà người khác khó vượt qua. Nhưng Vui bất cần. Vả chăng, tất thảy những dị nghị, những dè bỉu lẫn những sự rườm lời của công chúng cũng giống như lũ ve, chỉ sống trong mùa hè. Tiết thu sang, muốn hay không chúng cũng phải chui vào kén.

Vui nhìn đôi bàn chân trắng như trứng gà bóc của mình, biết đó là sự cứu rỗi. Một chiếc phao cứu hộ đúng vào lúc cô sắp chết chìm. Gài lại chiếc khoá nhôm một cách tỉ mẩn, nhìn lại lần nữa làn da mỏng dính, trắng hơn cả da con gái thị thành, cô tìm lại điểm tựa giống như một đô vật tìm lại được thế đứng thuận lợi trên võ đài. Ngẩng đầu lên, Vui đã có thể cất lời một cách trịnh trọng, giống như những dịp cô khai mạc cuộc họp chi đoàn toàn xã:

- Năm sớm, có cành mai trắng làm quà, tặng vật nhà nghèo, mong ông không chê.

- Cô mà nghèo sao ?

Ông Quảng cười phá lên và cất tiếng hỏi:

- Cô tưởng tôi đi kiếm cơm xứ khác nên chẳng hay biết gì mọi sự trong làng trong xóm ?

- Không ! Tôi không nghĩ như vậy...

Cô đáp, lúng túng cúi mặt xuống vì hàm răng ông chủ trắng như ngọc, lại đều chằn chặn, chúng loá như ánh chớp khi ông ta cười:

" Phải chăng lão ta không hút thuốc lào, thuốc lá ? Có người đàn ông nào kiêng được thuốc ? Vậy làm cách nào mà lão giữ được hàm răng đẹp như răng bọn trai mười tám đôi mươi ? ".

Ông Quảng tiếp lời:

- Người làng bảo cô sắm máy nổ thượng hạng, rồi cô sắm đèn măng-xông cũng là thứ mới ra lò, tốt hơn hẳn đèn nhà tôi. Nay mai, cô sẽ trở thành người giàu nhất huyện đấy. -

Không dám...

- Nhưng cô đã có lòng cho cành mai, tôi xin nhận. Đối với tôi, đây chính là lộc đầu xuân. Nhà tôi có chiếc độc bình quai đồng , lát nữa tôi sẽ cắm cành mai vào đó.

Ông rót nước trà. Cô nhìn làn khói bốc lên , bâng khuâng tự hỏi vì sao cô lại không thể là người cắm cành mai kia vào chiếc độc bình cổ quai đồng kia? Vì sao ? Có lẽ trời đất hoặc quỷ thần hai vai đã quên lãng một phận sự cần thiết mà đáng lẽ họ nên làm từ rất lâu mới phải !

Nhưng cơn mơ mộng vụt đi rất nhanh, Vui nhớ lại nhiệm vụ khẩn cấp mà cô phải thực hiện: Gỡ cô ra khỏi tầm ngắm bắn của người đàn ông ngồi trước mặt.

- Đầu xuân, đến chúc tết ông, mừng người mới, hạnh phúc mới. Nhưng cũng lại có chuyện muốn nói. Không rõ ông có vui lòng chấp thuận hay không ?

- Ồ, tôi có phải bí thư huyện đoàn hay tỉnh đoàn đâu mà cô phải đưa đón vòng vo như vậy. Chỗ xóm giềng, trong làng ngoài thôn, chuyện gì mà chẳng thể nói được với nhau ?

- Vậy xin hẹn ông sau năm ngày tết, lúc nào rảnh mời ông ghé qua nhà chơi.

- Được rồi, tôi cũng có nhiệm vụ đến chúc tết lại chứ. Có đi có lại mới toại lòng nhau...

Chưa kịp cạn chén nước chè, khách đã ầm ầm kéo đến đầy sân. Cô Vui rút lui, nhưng trước khi về không quên ghé vào tận bếp chào cô Ngân với bà Tư bởi hai người đàn bà đã rút lui vào vương quốc của họ. Trong bếp, ngổn ngang những nồi cùng chảo. Mùi xôi dừa lẫn mùi gà tẩm mật ong rán cùng bốc lên, hoà lẫn nhau, cho một mùi thơm ngào ngạt.

Trưa hôm đó, vào bữa cơm chỉ có ba người, cô Ngân bảo chồng:

- Này anh chàng kháu lão, cái nhà cô to đùng đến đầu buổi phải lòng ông đấy. Có biết hay không mà cứ giả bộ ậm ừ ?

- Sao mà tôi biết được ?

- Đúng, việc gì cậu phải biết cơ chứ ? Đông, tây, nam, bắc... bốn phương tám hướng, thiên hạ thiếu gì người ?

Bà Tư chêm vào, rõ ra vẻ hãnh diện. Ông Quảng tò mò nhìn vợ:

- Nhưng vì sao mình lại cho là cô ta mê tớ ?

- Úi chao !

Cô vợ trẻ bĩu dài môi:

- Kiểu mắt nhìn đờ đẫn như say thuốc lào thế ấy chẳng phải kẻ mộng du thì chỉ là mắt mê trai thôi.

- Thật thế sao ?

Ông Quảng hỏi lại và cất tiếng cười ròn rã:

- Này cô mình, nếu chẳng có duyên có phận gặp cô mình tớ cũng có khối người xin vào cửa. Chưa đến nỗi phải đi gánh một cô hộ pháp về để sớm tối đấu võ hay tranh giải đô vật gia đình.

- Đúng rồi !

Bà Tư móm đế vào tức khắc:

- Gần một năm nay , không biết bao nhiêu kẻ gửi trầu cau với bánh đậu, bánh gai Hải Dương biếu cháu. Nhờ lộc cậu, chưa kịp làm bà mối đã no xôi chán chè.

Cô Ngân nhìn hết nhìn chồng lại nhìn bà Tư , đang đong đưa đôi khuyên tai mặt ngọc , ngoác cái miệng móm cười với vẻ hả hê:

- Thôi, tôi chịu thua cả hai cậu cháu rồi ! Rõ thật là một đồng một cốt.

Phần cô Vui, suốt dọc đường về, cô băn khoăn tự hỏi xem ông Quảng đã biết chuyện cô đi đến làng Khoai hay chưa ? Bởi giọng cười của ông, vừa có vẻ khoáng đạt, lại vừa có vẻ riễu cợt mà cô không thể cắt nghĩa. Cái nhìn của ông cũng vậy, khi long lanh nó toát lên sự vui vẻ và độ lượng, khi mờ tối nó lại phản chiếu nỗi chua chát mơ hồ mà cô không biết căn duyên. Thêm nữa, cô tin chắc rằng sau tối mồng một, dân làng đã lại đổ đến nhà ông Quảng, nơi chốn lý tưởng cho truyền thống hiếu khách. Tính hào phóng cũng như cốt cách sang cả của chủ nhân là những phẩm chất bất khả cạnh tranh. Cô hình dung mảnh sân mênh mông ấy, những gian nhà thênh thang bài trí toàn đồ gỗ thượng hạng mà ông đã chuộc lại và mua sắm thêm sau ngày sửa sai cải cách ruộng đất. Những bộ đồ ấm chén bầy trong chiếc tủ chè. Những chiếc đĩa men ngọc cổ và những chiếc lọ sứ bịt đồng mà khắp huyện không gia đình thứ hai nào có được. Và cô hình dung lại dáng vóc vừa vạm vỡ vừa thanh tao trong bộ đồ lụa, tiếng cười sang sảng như ngọc đổ vàng rơi. Cô bỗng cảm thấy cô như một con rối khổng lồ kết bằng giấy bồi, bị sụp đổ, bị bẹp dúm dưới cái nhìn sắc như gươm, bị tan rã bị rút mất linh hồn trước diện mạo của người đàn ông đó.

" Có lẽ lão ta đã biết hết chuyện. Không phải có lẽ, mà chắc chắn lão ta đã biết hết mọi chuyện. Từ hôm qua đến hôm nay, khách khứa nườm nượp như thế, chắc chắn đã có người kể lại mọi sự xẩy ra dưới mái nhà mình. Trong đám khách, có nhà thông gia với em út của ông ta. Vả chăng, khi dân làng đã nhìn mọi sự theo chiều hướng khác, người ta sẽ chẳng ngại ngần mà trở mặt, lật tay. Thói đời xưa nay đâu có lạ ?..."

Cô nhớ lại đường nhăn hằn sâu xuống một bên mép khi ông ta cười và giọng nói có phần chớt nhả:

- Tôi có phải bí thư huyện đoàn hay tỉnh đoàn đâu ?

Cái chi tiết sau cùng khiến cô đinh ninh rằng ông Quảng đã biết hết mọi chuyện. Giờ đây, cô chỉ có thể trông vào sự độ lượng của đối thủ mà thôi.

Về đến nhà, Vui mệt rã rời. Nỗi mệt nhọc lạ lùng cô chưa hề biết từ thuở khôn lớn. Buông mình xuống ghế, bất giác cô cúi xuống nhìn đôi bàn chân . Hai bàn chân trắng nõn trong màu nhựa xanh. Quanh năm đi tất đi giầy chỉ để ba ngày tết khoe được làn da trắng. Nhưng hôm nay trời rét, ai cũng thấy rằng cái việc mang đôi xăng-đan nhựa của cô là sự làm dáng cố tình. Người lõi đời như ông Quảng không nói ra nhưng hẳn phải thừa biết. Ôi, đôi bàn chân trắng nõn của cô. Tốn phí biết bao công sức nhưng cũng chỉ gìn giữ được làn da còn chẳng có cách chi thay đổi được hình dáng:

" Ta là con đàn bà mang cỡ giầy bốn mươi ba. Đôi chân này suốt đời chọn giầy dép thửa, đôi chân này bị kết tội vĩnh viễn mang hình dạng của bọn đàn ông. Đôi chân này không thể đẽo gọt, không thể sửa sang. Cũng chẳng có cách chi che giấu. "

Nước mắt bỗng trào lên mi, và lần đầu tiên trong đời, cô hướng về phía ông Đô, nói lời oán hận:

- Cha ơi, sinh con ra để làm gì ? Cha sinh con ra làm gì để con phải chịu bao nhiêu đớn đau, khốn khổ ?

Nước mắt che mờ khiến cô không còn nhìn rõ ảnh cha cô nữa. Nhưng lúc ấy, trên bàn thờ, ông Đô cũng rưng rưng lệ.

Từ khoảng mồng mười tết cho đến cuối tháng giêng, trời bỗng mưa rào liên tục. Nếu theo thời tiết thông thường những cơn mưa này chỉ có thể đổ xuống vào khoảng đầu tháng tư âm lịch, nghĩa là cuối tháng năm theo lịch phương tây. Những cơn mưa ào ạt, rơi như bão táp trong vòng nửa giờ rồi ngừng lại. Nắng hửng lên, trời bỗng oi nóng một cách khó chịu. Rồi sau đó, gần như một trận tấn công bất ngờ của lũ cướp, mưa lại sầm sập tuôn rơi. Sau những cơn mưa, trời có một màu hồng xám nhợt nhạt, với những vẩn mây bẩn như bụi chì. Người ta ngửa mặt nhìn trời, than:

- Lạ lùng, sao mới tháng giêng đã có mưa rửa đền như vậy ?

- Mưa rửa đền tới sớm, cháo cám cũng chẳng có mà ăn.

- Lạy trời, đừng bắt dân khốn khổ thêm nữa. Vừa mới dịch châu chấu rồi lại sâu rầy .

- Ông không tin vào sức người mà chỉ lạy trời thôi ư ?

- Sức người có hạn, uy trời vô bờ. Mấy ngàn năm tổ tiên chúng ta lạy trời, nay tôi cũng lạy trời.

- Thôi, lạy trời xong cũng phải tìm cách mà dặm lấy ít khoai... Mưa sớm thế này, lợi dụng làm thêm vài luống khoai trái vụ. Nếu không may mất lúa thì còn có thứ mà bỏ vào dạ dày.

Người ta rủ nhau đi dặm khoai trái vụ. Rồi tiếp đó, người ta rủ nhau lên rừng hái nấm. Mùa này, nấm mọc như sung, mỗi buổi đi gặp may có thể hốt đầy bao dăm, bẩy cân tây hoặc hơn nữa. Nấm tươi xào mỡ lợn xuông cũng ngọt. Nhà nào xôm cho thêm vài lạng thịt bò ướp tỏi và lá ngò gai thái miến thì tuyệt vời, chẳng cần nêm gia vị hay bột ngọt vẫn ăn đứt nấm xào trong khách sạn thủ đô . Đối với những nhà đang còn nuôi con nhỏ, các bà có thể vằm nấm tươi với thịt thăn và hành hoa rồi đem viên theo kiểu viên bún mọc, sau đó nấu cháo hoặc nấu canh rau ngót rừng hay hoa lý. Tuy nhiên, người ta không chỉ hái nấm để ăn mà còn hái nấm để phơi khô, sấy khô đem bán. Quanh năm các cửa hàng ăn thành phố, từ thủ đô cho tới các thị xã miền xuôi lẫn miền ngược đều cần tới nấm khô. Bún mọc, bún thang, bóng nấu tôm, măng nấu sườn... tất thảy những thứ ấy đều phải có dăm cánh nấm mới dậy mùi. Ấy là chưa kể tới các món xào, các món hầm, hoặc món chưng cách thuỷ nơi cao lâu, tửu quán... Nấm đối với dân vùng này không nhẹ cân hơn lúa, khoai mì và những nguồn thu khác. Như thế, mùa nấm cũng giống mùa gặt lúa dưới châu thổ sông Hồng, vừa là mùa làm ăn vừa là một dịp chính đáng để tụ họp vui vẻ nên mọi người khó bỏ qua.

Mùa nấm năm nay là mùa nấm đầu tiên cô Ngân lên rừng với đám đàn bà Xóm Tiều Phu. Cũng chính là cơ hội đầu tiên để một cô dâu xứ lạ tham gia vào sinh hoạt của cộng đồng. Thoạt tiên, cô đi với bà Tư Móm, vị thần bảo trợ và người thân thiết nhất với cô sau đức lang quân. Rồi khi mối bang giao xóm giềng đã khá mặn nồng, hoặc là làm ra vẻ mặn nồng, cô đi với mấy bà, mấy cô liền dậu. Mỗi tốp như vậy khoảng từ năm đến mười người. Họ cùng nhau mang theo đồ ăn và thuốc phòng rắn độc. Mỗi năm chỉ có một mùa hái nấm chính thức nên đàn bà con gái Xóm Tiều Phu đổ hết lên rừng.Vợ con Quý đương nhiên cũng đi nhưng họ nhập vào tốp khác, và cả hai bên đều tìm cách tránh mặt nhau. Tuy nhiên, dù muốn hay không, cũng vẫn có những cuộc chạm trán. Bởi đường lên rừng buộc phải qua những trảng cỏ hẹp nơi lòng thung hay những con dốc độc đạo. Người ta không có cách chi tránh được những lối đi bắt buộc ấy. Cái sự chạm trán giữa những kẻ cừu thù đương nhiên phải xẩy ra trước mắt láng giềng. Sau mỗi lần, thiên hạ lại trần thuật một cách rộng rãi khắp xóm cùng thôn, giống như cuộc trần thuật những trận bóng đá tranh giải quốc gia hay quốc tế xảy ra tại các câu lạc bộ thành phố. Theo cách đánh giá chung của người làng, vợ con Quý ỷ vào hai thế: Trứơc hết, họ là dân sở tại , mà cái thói:" Ma cũ bắt nạt ma mới " vốn là thói quen đã hiện hành hàng nghìn năm. Thứ hai, họ lại là số đông, bởi họ có những ba mẹ con, trong khi đối phương đơn thương độc mã. Thế nhưng, điều oái oăm là cả hai thế mạnh kia đều không chạm tới được lông chân cô nàng áo xanh của ông Quảng. Người ta kể một cách chi tiết rằng, ngay lần chạm trán đầu tiên, vợ Quý chiếu vào mặt cô Ngân một cái nhìn đầy vẻ khiêu khích và phỉ báng , ngay tức khắc cô Ngân cũng quay đầu, giương mắt trừng trừng nhìn lại địch thủ, không lùi một phân. Kể về sức lực cũng như tinh thần thì cô ta uy hiếp hẳn người con dâu của ông chồng, nhỏ bé quắt queo nặng không quá bốn mươi cân, cổ dúm lại như cổ bà lão. Nếu hai đứa con gái nhà Quý nhổ nước bọt một lần, tức khắc cô Ngân nhổ hai lần trả miếng. Những cuộc chạm trán thù địch như vậy thường diễn ra trong sự im lặng của dân làng. Mọi người đếu cúi mặt làm ngơ, chẳng ai dám lên tiếng can ngăn hay hoà giải. Một lần nào đấy, đứa con gái nhỏ của Quý, chanh chua thách thức:

- Giỏi thì chơi ?

Cô Ngân cười khẩy, vênh mặt lên:

- Chớ cậy thứ luật:" Hai chọi một, chẳng chột cũng què". Tao đây, tao chấp cả ba chọi một. Dám hay không ?

Lúc này, chính ba mẹ con nhà Quý lại phải nuốt hận làm thinh vì nhìn tình thế, rõ ra cô thợ quét vôi kia có thể tả xung hữu đột với cây trượng của ông chồng giáng cho họ những đòn chí tử. Và chắc chắn không một người láng giềng nào dám đứng vào bè với họ để đánh lại cái "con đĩ áo xanh kia ". Sân nhà " Con đĩ áo xanh " giờ đây đã trở thành câu lạc bộ của người làng, còn có phần đông vui gấp bội thời bà Quảng còn sống. Người ta đã ăn đã uống, đã vui vẻ chuyện trên trời dưới biển trong ngôi nhà ấy, người ta, dẫu trong lòng có muốn, cũng không thể quay đầu lại đánh gia chủ.

Thời gian này, chẳng thấy chủ tịch Quý đâu. Mọi thứ giấy má của dân xã, đã có ông phó chủ tịch lo liệu. Nghe đâu có đợt tập huấn mười hai ngày dưới huyện dành cho các chủ tịch xã, sau đó tiếp đến cuộc tập huấn mười ngày dành cho các bí thư xã. Quý vừa là chủ tịch vừa kiêm nhiệm phó bí thư. Tập huấn xong bên chính quyền, anh ta ở lại luôn dự đợt tập huấn đảng thay cho ông bí thư ở nhà nuôi vợ đẻ .

Trước khi đi, anh ta rẽ qua nhà cô Vui:

- Ông bố tôi biết chuyện cô về làng Khoai rồi hả ?

- Chứ anh tưởng giấu được ông ấy hay sao ?

- Ông ấy có tra hỏi gì không?

- Anh không hiểu bố anh. Ông ấy chẳng thèm động dạng tới chuyện đó. Ngay một nửa chữ.

- Bố tôi không vừa đâu.

- Anh chẳng phải dạy.

- Thế hai người nói chuyện gì ?

- Chuyện trồng mai, trồng đào phai hay bích đào... Chuyện nuôi ong, thay giống, hớt phấn hoa hay cải tiến kích thước đõ. Thiếu gì việc ông ấy quan tâm.

- Giờ tôi hỏi cô sự này: Cô có chắc hai người ấy đăng kí được ở làng Khoai hay không ? Bởi lão giáo làng Khoai lại là cháu ruột chủ tịch xã ?

- Người ta đoán vậy thôi, chẳng ai chắc. Một mặt, chủ tịch xã không thể phỉ báng cháu ruột mình. Bởi nếu ông ấy công khai làm đăng kí kết hôn cho cô Ngân khác nào dáng cho cậu cháu một cái tát. Nhưng mặt khác...

- Mặt khác làm sao ?

- Tôi không biết được.

Cô bí thư buông câu nói nửa chừng vì trong óc cô hiện lên những ngôi nhà mà ông Quảng đã ra tay xây dựng. Chủ tịch làng Khoai không được hưởng một cơ ngơi đồ sộ như thế, nhưng ít nhất ông ta cũng đã được thay mái ngói, thay bốn bức tường lồi lõm cong queo thành những bức tường gạch phẳng phiu, trát xi-măng từ ngọn tới gốc, lại quét vôi vàng sáng choé... Thêm nữa, chân tường cũng chạy diềm sỏi trắng như kiểu nhà công sở, đối với dân làng Khoai, đấy hẳn đã là cách chơi sang. Chưa hết, mảnh sân cũng được lát gạch lá nem và có tường hoa bao quanh. Như thế, nhà ông ta tuy vẫn chỉ một tầng nhưng trông khang trang, lộng lẫy như con công đứng giữa đám gà vịt đói lông cánh xơ xác xung quanh. Rõ ràng là của cải từ túi bà giáo làng Khoai chảy ra để đắp đổi cho ngôi nhà này không phải ít.

Quý sốt ruột trước vẻ ỡm ờ của Vui. Anh ta cau có dằn giọng:

- Cô bảo sao ? Làm gì mà nửa kín nửa hở như vậy ?

- Tôi không biết được.

- Cô không biết thì còn ai biết ? Cô là người duy nhất ở Xóm Tiều Phu đi đến tận làng Khoai.

- Vì thế nên tôi sẽ phải hứng đòn của ông bố anh. Mà anh cũng không thể giơ lưng chịu thay tôi được.

Cô Vui nổi khùng quát trả lại, giương mắt nhìn Quý, hai kẻ a tòng nhanh chóng biến thành thù nghịch sau cái nhìn hờn oán. Rồi sau một tích tắc bất động, cô gái già bất chợt vùng đứng lên xô ghế và vung tay như đuổi gà:

- Tôi đã bảo không biết tức là tôi không biết. Muốn rõ đầu đuôi, anh về làng Khoai mà điều tra.

Quý không nói thêm nửa lời, mặt đen sầm như đám mây trước cơn mưa bão. Anh ta ra cửa, cô Vui quay lưng vào buồng trong, chẳng ai chào ai.

Ở dưới huyện, nhưng gan ruột Quý cồn cào như ăn phải thuốc phiện sống. Giống mảnh vải bị cuốn vào guồng bánh xe, lòng thù hận khiến anh ta quay đảo, khắc khoải không nguôi... Anh ta không còn nhìn thấy vật gì ngoài "con đĩ áo xanh " . Con đĩ áo xanh, kẻ bất chợt từ trên trời rơi xuống hoặc từ một miền đất lạ gió cuốn tới đây...

" Con đĩ áo xanh ! Kẻ thù sinh tử của ta ! "

" Con đĩ áo xanh ! "

Nhưng vì đâu mà có lòng căm thù ấy ? Quý không thể tự hỏi vì anh ta không đủ sáng suốt lẫn can đảm để làm điều ấy. Bởi chính anh ta cũng không hiểu vì sao mình căm thù người đàn bà khác xứ kia đến như vậy. Dường như lòng căm thù này là một loại mèo hoang hay chó lạc bỗng dưng từ đâu đó chạy thẳng vào sân nhà cất tiếng gào dã man cất tiếng sủa điên loạn. Hoặc như thứ hạt mầm cay độc cơn gió lang thang bỗng dưng mang tới, cấy vào trái tim con người, ở trong đó, nó nảy mầm, đơm lá, những chùm rễ sinh trưởng mau hơn loài thuỷ tức, lan toả, len lỏi, ăn sâu vào từng tế bào và con người khốn khổ không còn là gì hơn một thứ xác chết vận hành dưới những sợi dây điều khiển của lòng thù oán. Những dòng chữ thường xuyên hiện lên trong óc não, những tiếng nói thường xuyên vang lên bên tai Quý là:

" Con đĩ áo xanh, kẻ sẽ chiếm mái nhà mà ta có quyền thừa tự, kẻ khiến cho gia đình ta tan vỡ, cha con chia lìa và mẹ ta phải ngậm hờn nơi chín suối. "

Tuy nhiên, anh ta chưa bao giờ dám thú nhận với chính mình rằng cái " con đĩ áo xanh kia " còn khiến anh ta mất hoàn toàn thăng bằng mỗi khi gặp mặt. Rằng ngay lần đầu chạm trán cô ta, toàn thân Quý đã hầu như tê liệt, giống như một con cua trong tầm tay vồ của con ếch, co rúm cả tám càng lại chờ phút khai tử, hoặc giống như một con chuột hoàn toàn bị đông cứng tứ chi mất hết khả năng tự vệ trước cặp mắt thôi miên của loài rắn. Khoảnh khắc ấy, toàn thân anh ta lạnh ngắt như tử thi rồi sau đó lại bừng bừng như đám cháy, và những cảm giác tột độ trái chiều như thế cứ lần lượt đổi thay nhau. Ngay lần ấy, anh ta đã cảm thấy sinh mệnh của mình từ nay thuộc về một kẻ khác, và cái thân xác anh ta đang cư trú chẳng qua cũng chỉ còn là vỏ của một con tàu mà bánh lái lẫn những ngọn buồm đã bị điều khiển bởi bàn tay một ác thần vô hình đầy quyền năng. Kể từ ngày ấy, cứ mỗi lần nhìn thấy đôi mắt nhóng nhánh đen huyền của cô ta là máu trong huyết quản Quý lập tức sôi lên. Cái thứ máu sôi sục trong thân xác đó thổi lên trên mặt anh ta một đám cháy, khiến da mặt anh ta bỏng rát trong khi đầu óc quay cuồng, và mọi vật bỗng trở nên bồng bềnh mờ mịt như bị nhìn qua đám khói đốt rạ giữa cánh đồng. Anh ta cũng không kịp nhận ra rằng khi thấy cô ta, cổ họng anh bỗng dưng bị nghẹn, kiểu như người ăn khoai bị nghẹn vì nuốt nhầm thứ khoai quá bở lại không có nước chiêu. Và hơi thở của anh ta cũng bỗng nhiên thiếu hụt như kẻ leo núi cao mà không còn đủ sức. Sáng mồng một, để giữ được vẻ bình tĩnh khi đối đáp với người cha, Quý đã phải tự cấu vào lòng tay mình cho đến nỗi máu tụ đen bầm sau đó. Rồi tới lúc bị ông bố đuổi, bầu đoàn kéo nhau qua sân anh ta vẫn cảm thấy nửa bên mặt hướng về phía gian bếp bị tê liệt vì chờ mong "cái con đĩ tử thù kia" xuất hiện lần nữa. Một nỗi ước mong thầm kín bất khả nhận diện và bất khả kiềm chế khiến anh ta bước đi một cách vô hồn như sự vận hành của một zombie. Mảnh sân quen thuộc nơi nhà bố mẹ đẻ bỗng trở thành một sa mạc bất trắc. Và khuôn cửa nhà bếp bỗng trở thành cửa một hang đá bí ẩn nơi có nguy cơ xuất hiện một loài thú huyền diệu có khả năng dẫn tới cùng một lần địa ngục lẫn thiên đường. Anh ta đã đi qua mảnh sân ấy với cơn bão lốc cuồng nộ trong tâm hồn... Nhưng cô Ngân đã cố thủ bên trong. Cuộc tấn công của anh ta thất bại hoàn toàn mà không có mảy may an ủi hay cứu rỗi...

Giờ thì những cuộc chạm trán thù nghịch giữa "con đĩ xinh đẹp" kia với vợ con anh ta đã diễn ra mỗi ngày mỗi căng thẳng. Lòng căm thù của anh ta cũng càng ngày càng ngùn nghụt bốc cao:

" Con Vui đã trở mặt, nó không còn muốn giúp ta nữa. Con voi cái thiếu đực này chắc đã ngã lòng trước ông bố của ta. Lão già ăn hết mọi phần lộc của thiên hạ. "

Quý ngẫm nghĩ với nỗi đau đớn rằng sẽ chẳng bao giờ anh ta với được đến vai ông bố , không chỉ vì tầm vóc bên ngoài mà còn vì biết bao điều khác. Và cái ý nghĩ này dầy vò anh ta cả ban ngày lẫn ban đêm, cả lúc ăn lẫn khi ngủ. Sau những ngày đêm liên tục bị nghiền nát dưới cảm thức về sự thua thiệt và tủi hổ, đôi khi anh ta ngồi làm phép tính cộng trừ tuổi tác giữa ông bố đẻ với mình. Chỉ khi đó, Quý mới tìm được nguồn an ủi. Muốn hay không, anh ta cũng còn trẻ, và tuổi trẻ là sức mạnh vô địch. Trời cho anh ta thời gian. Trời cho anh ta cơ hội. Có một khác biệt không thể chối cãi, một vực sâu không thể san lấp giữa một ông già sáu mươi mốt với một người đàn ông tuổi bốn mươi:

" Ta không thể chấp nhận để mình bị gạt ra ngoài lề và thành kẻ trắng tay. Cuộc đấu không thể kết thúc dễ dàng như vậy. Ta còn cơ hành động. Chẳng cần cái con gái già kia, ta vẫn có thể làm mọi sự một mình. "

Ý nghĩ cuối cùng nung nấu Quý trong suốt ba tuần lễ tập trung nghe huấn thị của cấp huyện và cấp tỉnh. Khi đợt huấn thị kết thúc, anh ta bỏ bữa cơm liên hoan bế mạc dông thẳng xuống thành phố, nơi công trường tỉnh uỷ. Người làng báo cho anh ta biết rằng ông Quảng đang còn ở lại Xóm Tiều Phu để giúp cô vợ trẻ phơi sấy nấm. Thực là cơ may. Tại công trường, Quý tránh khu vực của đám thợ nội tỉnh vì đa phần đều là người trong huyện do ông Quảng tuyển lựa. Anh ta phải lân la ở dãy quán bán cơm bên ngoài khá lâu nhằm dò cho ra khu nhà mà đám thợ Hà Tây, lũ "gái công trường" trú ngụ. Tìm ra "hang ổ " của con đĩ áo xanh rồi, Quý còn phải ngồi chờ ngoài quán cơm cho đến khi trời sẩm tối , anh ta mới dám mò vào công trường sau khi mua hai bao thuốc làm quà cho gã gác đêm:

- Tôi có cậu em họ làm việc trong đội nề của ông Quảng. Nó đang tìm hiểu một cô thợ quét vôi Hà Tây. Chú thím tôi nhờ tôi kiểm tra xem tình hình sinh hoạt của cô ta có được lành mạnh hay không để còn quyết định tổ chức đám cưới. Lý do chính đáng như vậy, hy vọng rằng đồng chí có thể giúp đỡ tôi.

- Đồng chí có giấy tờ chứ ?

- Có ngay đây.

Quý chìa chứng minh thư kèm theo theo giấy triệu tập chỉnh huấn của huyện. Người gác cổng chúi mũi xuống đọc. Sau đó, anh ta ngẩng lên nhìn Quý với vẻ nịnh bợ:

- Mời đồng chí vào. Cẩn thận những khúc đường trơn vì giờ này chúng tôi tắt nửa số đèn, khu vực thi công còn nhiều đoạn lầy lội. Chúc đồng chí thành công.

- Cảm ơn.

Chủ tịch Quý đáp một cách hài lòng. Vẻ khúm núm của người gác cổng khiến anh ta thấy tự tin hơn, phấn chấn hơn .

Từ cổng công trường tới khu vực ăn ở của thợ không gần. Đi rảo bước cũng phải mất hơn nửa tiếng. Vừa đi, Quý vừa suy tính cách tiếp cận với đám thợ quét vôi, những kẻ không mảy may quen biết. Một lần nữa, cái bóng sừng sững của người cha lại đổ xuống, trùm lấp. Quý biết rằng anh ta không có khả năng chinh phục, anh ta thiếu duyên giao tiếp. Những điều mà ông Quảng có thể nói ra một cách dễ dàng trong giây phút anh ta phải suy ngẫm đắn đo, tìm lời sắp ý một cách khó khăn. Theo rõi ông bố từ tuổi thiếu niên, Quý ngạc nhiên vì hầu như ông ta không cần suy tính gì trước, khi sự việc đến, tức khắc cách phản ứng, những lời lẽ đối đáp như dòng suối bất thần chảy tới, hoặc như mạch nước ngầm từ trong núi đá tuôn ra. Quý chứng kiến khả năng ứng biến tài tình của người cha, vào chính những dịp ông dẫn anh ta xuống xin học dưới tỉnh. Thoạt tiên là trường trung cấp hàng hải vì thuở nhỏ Quý thích gấp thuyền, tắm suối và giấc mơ tuổi mười ba của anh ta là trở thành thuỷ thủ. Nhưng ngay lần thứ nhất tham quan tầu thuỷ, Quý đã say sóng đến nỗi cả tuần sau đứng lên vẫn xây xẩm mặt mày, anh ta nằng nặc xin bố cho chuyển sang trường trung cấp cơ khí. Với nghề cơ khí, Quý theo học được hơn một năm, nhưng cho dù hết sức cố gắng và cho dù ông Quảng không tiếc công tiếc của nhờ các thầy giáo trong trường lẫn các quản đốc công xưởng kèm cặp, Quý cũng không đủ khéo léo và kiên nhẫn để có thể trở thành thợ tiện mức trung bình. Sau thất bại này, mới đến trường trung cấp lâm nghiệp, cây cầu cuối cùng để sau đó anh ta phải rút ván và không bao giờ dám mơ tưởng quay lại bất cứ mái trường nào nữa. Sự thay đổi liên tục các trường trong hệ thống hành chính nhiêu khê, phiền toái như thế, ai nghe cũng lè lưỡi lắc đầu, vậy mà Quý thấy ông Quảng phẩy tay nhẹ như bấc. Dường như con người đó sinh ra để thành công, ông ta có tất thảy những phẩm chất của kẻ thành đạt.

Nhưng một khi ông ta đã hưởng hết mọi quà tặng của số mệnh, con cái sẽ phải chịu hẩm hiu...:

" Trời cho người này, trời rút trong túi người kia ! "

Quý đinh ninh như vậy. Không hiểu từ đâu, mà anh ta có cái kết luận lạ lùng đó. Có những ý nghĩ quái đản mọc rễ trong óc con người mà không ai nhổ bật lên được. Phải chăng vì có những thứ tâm hồn u ám chỉ thuận lợi để nuôi dưỡng sự hằn học, ghen tuông giống như những đầm lầy chỉ có thể làm nảy sinh loài rong đuôi chồn, cỏ mực ?

Khu nhà dành cho các nữ công nhân ồn ã nhất là sau bữa cơm chiều. Đây là giờ các bà các cô ăn cơm xong, ngồi túm tụm chơi tu-lơ-khơ hoặc chuyện gẫu. Mùi ngô rang bay thơm lừng. Các bà nạ dòng vừa đánh bài vừa ăn kẹo lạc và ngô rang. Còn những cô trẻ nhất đang kề mặt dưới ngọn điện mà tỉa lông mày, thứ chăm sóc dung nhan ít tốn kém nhất. Quý phải dừng lại ngoài cửa vì nghe tiếng quật bài đen đét, tiếng cười sằng sặc, tiếng nói quang quác của họ. Một thứ thực tiễn mà anh ta chưa chạm trán bao giờ. Đàn bà Xóm Tiều Phu không dám cười sằng sặc như thế, cũng không dám la hét và quát tháo hệt như lũ đàn ông quanh chiếu bài. Nói cho thật đúng, đàn bà Xóm Tiều Phu không được phép chơi bài. Họ có nhiều việc trong nhà và trong bếp:

" Rõ là mấy con đĩ công trường, thiên hạ chửi không ngoa. Đúng là lũ ngựa cái được xổ chuồng tháo cũi. "

Anh ta thầm nghĩ, cảm thấy hả hê khi con đĩ áo xanh chính nảy nòi từ đây, giữa bọn đàn bà mất nết này. Ông bố chẳng có lý do gì để quá tự hào vì một cô vợ như thế... Trong khi Quý tần ngần nghĩ ngợi, một cô gái trẻ vừa sửa sang xong cặp lông mày bỗng dưng bước ra ngoài. Thấy bóng đàn ông nép trong bóng tối, cô ta kêu thét lên:

- Ối giời ơi !Ai ? Ai thế ?

- Tôi... tôi...

Quý lắp bắp trả lời:

- Tôi là người nhà cô Ngân... Hà Tây... Tôi đến tìm cô ấy...

Tiếng kêu thét của cô gái kéo cả lũ các bà các cô đổ ra cửa. Họ vây lấy Quý, người đang còn nhai dở ngô rang, kẻ đang cầm cỗ bài, cả bọn nhìn chòng chọc khiến anh ta thấy đôi chân bỗng dưng mềm nhũn ra như muốn chạy trốn khỏi cơ thể:

- Ngân nào nhỉ, Ngân thối tai hay Ngân Quảng ?

- Ngân... Hà Tây... Ngân làng Khoai.

- A... Thế là Ngân Quảng. Nó đi lấy chồng rồi, họ hàng sao chẳng biết ?

- Tôi cũng đi thoát ly dưới Ninh Bình từ mấy năm nay...

Quý đáp. Các bà các cô nhìn anh ta từ đầu đến chân một cách tọc mạch, và ngờ vực:

- Anh họ hàng thế nào với nó ?

- Tôi với cô ấy là... con cô con cậu...

- Con cô con cậu hay anh em... thông ruột ? Cứ khai thật ra rồi chúng tôi khắc mách đường mách nẻo cho mà tìm.

Quý im lặng, mặt bỗng dưng nóng rần rật và mạch máu nhảy như đánh trống hai bên thái dương. Anh ta không biết đối đáp ra sao với lũ đàn bà dạn dĩ này. Trong khi đó các bà các cô nhất loạt phá lên cười ngả cười nghiêng, giống như họ được xem một màn hề chèo tuyệt đỉnh . Những ánh mắt tinh quái của họ chiếu vào mặt Quý giống những mũi kim châm khiến anh ta ê ẩm da thịt. Lát sau, anh ta hắng giọng, cố gắng nói một cách từ tốn và bình thản:

- Các chị hay đùa quá. Tôi đến đây thăm hỏi thật tình.

Bà nạ dòng có tiếng cười nam nhi nhất, sau khi lau nước mắt bằng ống tay áo, thu cỗ bài dang dở lại và bảo Quý:

- Thôi được, nếu anh đã muốn nói thật tình, chúng tôi sẽ bảo anh tình thật. Đùa một chút cho vui thôi. Mà cho dù anh là họ hàng con cô con cậu hay nhân tình nhân bánh thì cái sự ấy cũng chẳng dây gì đến chị em chúng tôi. Nếu đúng anh muốn hỏi cô Ngân làng Khoai thì cô ấy bỏ công trường theo chồng về làm trang trại. Chồng cô ấy là ông Quảng, xếp điều hành toán thợ tỉnh sở tại chứ không phải những kẻ đi làm mướn xứ người như chúng tôi đây. Anh muốn rõ thêm, sang khu nhà A 7, A 8 mà hỏi. Thợ ở đấy toàn một tay ông Quảng tuyển về. Họ biết rõ hơn chúng tôi.

- Cảm ơn chị , vậy cô Ngân cưới vào thời gian nào ?

- Chịu ! Không ai biết.

- Tôi tưởng công nhân xây dựng gia đình, ban tổ chức công trường có nhiệm vụ giúp đỡ ?...

- Công nhân cũng dăm bẩy loại công nhân. Chúng tôi đây chỉ là dân quê chân đất được tuyển tạm chứ có đứng trong biên chế nhà nước đâu mà được quyền đòi hỏi. Vả chăng tình cảnh gia đình cô Ngân cũng rắc rối lắm. Họ không thể cưới xin bình thường như những người khác.

Một cô trẻ tuổi đứng cạnh chêm vào:

- Nghe nó nói là có cưới xin đàng hoàng mà ?

Cô khác ngắt lời ngay tức thì:

- Cưới cái con khỉ...

Đoạn quay lại cô kia, cấm cảu:

- Cưới xin gì mà nó im ỉm như ngậm hột thị thế ?

- Nó đã chẳng mời bọn mình bún chả với bánh kẹo nhoè bữa chia tay rồi còn gì ?...

- Liên hoan chia tay là một việc, cưới xin danh chính ngôn thuận lại là việc khác. Mày to đầu mà sao ngu thế ?

Bà nạ dòng có tiếng cười nam nhi mắng cô gái. Đoạn bà cúi xuống nhìn cỗ bài trong tay. Quý biết rằng đã đến lúc phải chuồn, anh ta cúi chào mọi người:

- Xin cảm ơn các chị, các cô.

- Không dám .

Anh ta vừa quay lưng đi đã nghe các đám đánh bài hò nhau vào chiếu . Những tràng cười ròn rã lại nổ như bắp trong nồi rang. Trong khung cửa sáng, bóng con gái đi qua đi lại, cô áo trắng, cô áo tím, cô áo hồng:

" Mấy con đĩ ngựa xổng chuồng. "

Quý lầm bầm trong họng, nhưng mắt vẫn dán vào khung cửa hình chữ nhật sáng loá điện. Có cái gì nơi đó hút anh ta như nam châm hút sắt ? Anh ta không biết. Nhưng đứng hồi lâu trong bóng tối, thầm lén nhìn những người con gái kia, anh ta bỗng cảm thấy như vừa đánh mất cái gì đó, một sự mất mát mà anh ta không hình dung nổi và cũng chẳng hiểu vật bị mất là cái gì. Cố cắt nghĩa những điều xảy ra trong lòng mình mà không thể được, Quý tự hỏi:

" Cái gì nhỉ ? Ta đánh mất vật gì ? Ta muốn điều chi ? "

Không có lời giải đáp. Rồi bất chợt một cơn tức giận xộc lên họng mặn chát khiến anh ta phải bật thành lời:

" Đúng là lũ ngựa cái động đực, thằng nào rước phải thứ của nợ như chúng mày chẳng chết sớm cũng chết muộn. Rõ ra thứ gái công trường. Con đĩ kia trước đây vài tháng cũng ra ra vào vào õng ẹo như thế. "

Trong đêm, tiếng anh ta vang rất to, dội qua những khu nhà thô rỗng vọng lại khiến anh ta đâm hoảng. Sợ đám người trong nhà nghe thấy Quý vội quay đầu chạy. Đường công trường len lách giữa những đống cát sỏi, những đống gạch ngổn ngang cao thấp , những đống xà giầm, những cối vữa dùng dang dở được ủ lại bằng nhiều lượt bao tải ướt. Trong bóng tối, thần hồn nát thần tính, Quý đạp lên một viên đá cục, ngã bổ nhào vào đám vữa đang còn nhão. Vữa lấp đầy mặt lẫn một bên vai và cánh tay anh ta. Khi đứng lên được, Quý mới nhận ra tình cảnh của mình:

" Thế này mặt mũi nào mà đi ra phố ?... Mà trước khi ra phố lại còn phải qua mặt thằng gác cổng ?"

Anh ta bỏ chiếc cặp da bò xuống, lục tìm các ngăn xem liệu có tờ báo nào có thể vò nhầu để lau đỡ khuôn mặt nhem nhuốc của mình. Lúc ấy,nước vôi đã kịp ngấm vào một bên mắt khiến anh ta buốt rát. Cơn buốt rát mỗi lúc mỗi tăng theo cấp số nhân , một sự gia tăng kinh hoàng. Cơn đau nhục thể ấy rút lên tới tận đỉnh đầu hoà với một nỗi đau khác, còn khủng khiếp hơn, ý thức về sự bất khả và nhục nhã. Nước mắt anh ta tuôn ra, hoà lẫn chất vôi khiến cho cả khu quầng mắt và gò má bỏng rát như bị chà lửa. Rồi nỗi đau đớn đẩy bật lên những tiếng nức nở. Người đàn ông đã ngoại tứ tuần hốt hoảng vì không thể kìm nén khóc. Những cơn nức nở buột khỏi sự gìm nén của anh ta, giống sợi dây diều tuột khỏi tay đứa bé chơi diều, như dòng lũ phá sập bờ đê để tuôn tràn như thác đổ. Trước mắt Quý chỉ còn lại một không gian mênh mông, trong đó những con thác đen không ngừng tuôn xối xả. Dường như toàn bộ máu trong huyết mạch anh ta giờ đây đã trở thành đen, đen tuyền, đen kịt. Những dòng máu đen lan toả khắp cơ thể. Toàn thân Quý run lên trong một nỗi thèm khát điên cuồng: Cần phải cắt cổ ai đó, cần phải đập vỡ sọ ai đó, cần phải chà nát ai đó dưới chân cho hả cơn đau đớn mà giờ đây anh ta đang phải chịu. Vừa chùi bộ mặt lem luốc vôi vữa, Quý vừa nhắm chặt mắt lại để nước mắt có thể rửa trôi đi phần nào chất vôi bám quanh bờ mi. Và lúc đó, trong óc não, anh ta thực hiện mọi cuộc trả thù: Anh ta đốt cháy khu nhà lộng lẫy của tỉnh uỷ. Anh ta cầm súng lia vào đám đông hội nghị như đứa bé lấy roi quật nát một tổ kiến, anh ta cưỡi lên đầu bí thư tỉnh uỷ, cái lão bụng phệ đã một lần mắng anh ta như mắng trẻ lên ba trong hội nghị đảng bộ tỉnh, anh ta cầm con củ tia vọt nước đái vào cái mặt phương phi nhờn những mỡ của lão, anh ta khạc lên mái tóc hoa râm mĩ miều lúc nào cũng rẽ đường ngôi thẳng tắp của lão, anh ta trèo lên xe Volga chễm chệ ngồi và bắt lão chạy bộ ngửi đám bụi mù mịt ở đuôi xe...

...Hình ảnh sau cùng lưu lại trong đôi mắt bỏng loét của Quý là hình ảnh chính anh ta đang cưỡi lên ngực một con đàn bà trần truồng, trắng nõn. Anh ta bóp nặn, cấu chí, rồi cắn rách đôi vú của ả. Vết răng anh ta hằn rõ như vết răng loài sói trên bờ những vết thương, nơi máu ri rỉ chảy ra. Đôi núm vú nhỏ của cô ta sắp đứt chỉ còn lủng lẳng bám vào bầu vú nhờ một mẩu da nhỏ, giống như hai hạt sen. Anh ta cúi xuống dứt đứt chúng bằng những ngón tay đen đủi của mình, với niềm khoái trá như đứa bé vặt chân con châu chấu. Rồi anh ta hiếp ả. Hiếp, với tất cả đam mê và căm uất tích tụ từ bao nhiêu kiếp sống. Hiếp, như cách duy nhất để có thể tồn tại trên mặt đất này. Anh ta hiếp ả no nê từ lúc mặt trăng mới lên cho đến tận trưa hôm sau, giờ ngọ, khi mặt trời in bóng các vòm cây tròn xoe trên mặt đất . Anh ta hiếp ả từ khi da thịt ả mơn mởn như mỡ đông, hồng tươi như vỏ trứng gà cho đến lúc da thịt ả trở nên mềm oặt, phôi phai, lợt lạt và sau rốt trong suốt như đám trứng ếch. Anh ta hiếp ả từ lúc ả xinh đẹp như bông hồng mùa xuân cho đến khi ả suy nhược, mệt lả , đến độ chỉ còn thoi thóp thở và khi anh ta đứng lên, cài khuy quần, ả hoàn toàn tan rã như đất mủn. Chỉ còn lại trên mặt đất một mớ giẻ lươm tươm, rách nát.

Một mớ giẻ màu xanh.

***

Mùa hái nấm qua đi như một thứ hội hè. Người ta thường nói tháng giêng là tháng ăn chơi, nhưng với dân Xóm Tiều Phu, tháng giêng lại là tháng làm cật lực. Trừ những ngày mồng bẩy, mồng tám và ngày mười bốn, mười lăm, dân chúng đi lễ chùa, không nghĩ tới đồng tiền bát gạo. Thời gian còn lại, ngày nào cũng được hoạch định ra tiền:

- Hôm nay nhà chị được bao nhiêu ?

- Năm cân bẩy.

- Thế cũng tàm tạm.

- Tạm làm sao ? Thua xa nhà con Minh thôn Hạ. Nhà ấy cũng một mẹ một con như nhà tôi mà mỗi ngày trung bình kiếm được bẩy cân rưỡi.

- Bì sao được với họ ? Cả hai mẹ con đều khoẻ như hùm. Chúng nó leo núi chẳng khác gì dân Sán Dìu, Sán Chỉ.

- Nhà bà cũng kiếm tốt đấy chứ, ngày nào cũng ngót nghét một yến.

- Cả ba mẹ con làm không kịp thở, tuốt mồ hôi lưng, đêm về hai bắp chân đau ê ẩm... Nhưng nhờ trời, thế cũng bõ. Mùa nấm năm nay bằng ba vụ sắn.

- Đúng thật, trồng sắn chẳng ăn thua.

- Chúng ta ngẩng lên chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống cũng ối kẻ thèm được như mình. Trời thương ra tay cho lộc, ngoài ruộng nương còn có rừng, có ong, có nấm Trần xì mỗi hạt thóc hay củ sắn chỉ có nước ăn cơm độn quanh năm với cà muối hay mắm tôm chưng.

- Phải. Chẳng trách chi dân những vùng độc canh dạ dày quanh năm lép, quần một mảnh áo một manh.

Cô Ngân tuy chẳng phải dân sở tại nhưng cũng không chịu kém cạnh ai, tuy một mình nhưng ngày nào cũng trên dưới bốn cân nấm. Bà Tư móm khoe khắp họ hàng:

- Mợ Ngân về làm dân Xóm Tiều Phu chưa kịp ấm chỗ mà tay lam tay làm còn hơn chán vạn người khác.

" Chán vạn kẻ khác " ở đây bao gồm ba mẹ con nhà Quý với đám đàn bà ngứa lưỡi chưa biết nếp tẻ xuôi ngược ra sao đã dài mồm chê:

- Cái ngữ áo đỏ, áo xanh ấy làm sao leo nổi núi ? Có hoạ chăng leo lên được lên bụng chồng.

Cái sự " leo lên bụng chồng " thì chỉ ông Quảng mới biết, nhưng việc leo núi hái nấm thì cả làng cả xã phải rõ rành rành, bởi ngày nào người ta cũng cân đo, đong đếm, ngày nào người ta cũng cộng các con số. Nhà nào cũng có một cuốn sổ để ghi chép từ đầu vụ đến cuối vụ, một thói quen ganh đua giữa các gia đình, một cách trực tiếp khích lệ lao động, nhưng nhiều khi cũng lại là duyên cớ làm nảy sinh những ghen tuông. Như thế, cuối vụ nấm, những ai sớm bĩu môi bĩu mỏ chê cô gái " áo đỏ áo xanh như con cào cào " đều phải sượng sùng cúi đầu làm thinh. Cô thợ quét vôi từ thành phố lên đã ăn đứt đám đàn bà sở tại. Ông chồng ở nhà vừa lo cơm nước vừa xoay sở sấy nấm mệt vã mồ hôi nhưng hớn hở như trẻ được quà. Chẳng nói ra nhưng mùa nấm năm nay chính là trận thử thách thứ nhất đối với cô vợ trẻ của ông. Họ lấy nhau khi chưa kịp qua giỗ đầu của bà Quảng, hơn nữa cô Ngân lại quá trẻ quá đẹp và ông thừa biết tất thảy những thứ " quá " ấy đều gợi lòng ghen tuông lẫn hậm hực của người đời. Nhiều bận, ông bắt gặp lũ trẻ rong chơi ngoài đường thôn nghêu ngao hát:

" Áo đỏ áo xanh
Là ả cào cào
Nơi nảo nơi nào
Mà mày bay đến... "

Ông hiểu những câu đồng dao cũ kĩ ấy được moi lên để ám chỉ ai. Cho dù vợ ông không bao giờ mặc áo đỏ , màu duy nhất cô ấy thích là màu xanh, nhưng cái thành ngữ kép " áo đỏ áo xanh" đối với dân quê nhằm ám chỉ những người đàn bà đỏm dáng thái quá, nhưng cũng còn ám chỉ những cô gái ở xóm chơi, những ả hát cô đầu . Mùa nấm qua đi cùng với tiếng thở phào của ông, bởi cho dù là người quả quyết, ông cũng biết rằng dư luận công chúng là sức mạnh không dễ vượt qua.

Giờ đây, dù muốn hay không, cái quan niệm "con đĩ thị thành áo xanh áo đỏ" không còn cơ tồn tại. Bằng năng lực lao động của chính cô ấy, vợ ông có quyền đánh bại bất cứ kẻ vu khống nào. Nói như bà Tư móm:

" Từ giờ trở đi, đứa nào dài mỏ nói láo, mợ Ngân cứ việc lấy gậy mà gang họng nó ra..."

Đương nhiên, bà Tư không chỉ nói một lần mà lặp đi lặp lại nhiều lần ở mọi nơi chốn một cách đầy dụng ý. Những lời lẽ cong cớn ấy được coi như một thứ cảnh báo chính thức nhất, cổ truyền nhất mà những người đàn bà Xóm Tiều Phu vẫn quen dùng để tự vệ.

Khi mùa hái nấm chấm dứt, chỉ còn lại những gia đình rỗi việc hoặc đông con là tiếp tục mót nấm ở những xó rừng hẻo lánh, còn đa số dân xã ở nhà để hoàn tất khâu lao động cuối cùng: sấy nấm và đóng bao nấm khô. Khắp xóm cùng thôn, mùi nấm thơm lan toả khiến không gian ngọt ngào, ngây ngất. Khói từ những lò sấy nấm bay lên, thanh mảnh nhẹ nhàng, toả vút cao giống những bó sợi trắng lửng lơ giữa khung trời, vây quanh chúng là những đám mây núi trắng vần vũ và những làn hơi mênh mang trắng từ các khe vực bốc lên tạo thành một bức tranh diễm lệ, nơi những màu trắng hoà sắc trên nền lơ xanh bất tận của thinh không. Vào buổi chiều, chim ríu ran về tổ, chim vợ gọi chim chồng, chim mẹ rủ chim con, từng đàn bay lượn trên các khu vườn. Ấy là những thời khắc mà tâm hồn con người bỗng trở nên tốt lành, êm dịu. Người ta dễ quên đi những cay đắng nhọc nhằn cũng như những xót xa, hờn oán. Mùa hái nấm còn đọng lại biết bao kỉ niệm vui vẻ của một thời gian lao động chung và lòng biết ơn nồng nàn những ân sủng của đất trời.

Trong nhà ông Quảng, đóng xong bao nấm cuối cùng cũng là lúc lo làm giỗ đầu cho bà vợ. Từ hai hôm trước, đám anh em trong họ đã dựng rạp che kín sân, kê từng dãy dài bàn ghế. Ứớc tính phải trên một trăm

mâm, bởi khách ăn từ trưa đến tối gồm ba đợt, mỗi đợt ba mươi lăm mâm. Chưa kể, cỗ cho người nhà và xóm giềng tới giúp việc nấu ăn cũng như rửa chén bát. Giỗ đầu bao giờ cũng là giỗ quan trọng nhất đối với cả người sống lẫn người chết. Với người chết, đó là thời khắc vĩnh viễn để vong linh được an tâm nơi chín suối, không còn muốn quay lại quấy rối những người thân sau khi đã nhận đủ phần hương hoa cũng như nợ nần ân ái. Đối với người sống, rõ là dịp bày tỏ trách nhiệm và tình cảm của họ với kẻ ra đi. Ấy là bằng chứng hiển nhiên về cung cách ứng xử cũng như tinh thần đạo đức. Với tình cảnh riêng trong gia đình ông Quảng, những tiêu chí này được nhòm ngó một cách kĩ lưỡng bội phần. Hẳn chủ nhân biết rõ điều đó nên việc chuẩn bị được thực hiện một cách hoàn hảo. Chủ chi, đương nhiên là ông Quảng, nhưng chủ trì, lại là bà Tư móm. Cô Ngân, chỉ đóng vai trò phụ tá cho bà Tư, có nghĩa là làm bất cứ việc gì được phân công, giống như bất cứ người nào trong đội quân láng giềng tương trợ. Xưa nay cô thường bận áo xanh, từ xanh cốm non hay nõn chuối đến xanh lá dừa hay xanh rêu đá. Hôm giỗ bà Quảng, cô bận áo đen. Rõ ra một sự để tang kín đáo người đã khuất. Thêm nữa, cô tháo đôi hoa tai mặt đá ru-bi đỏ lẫn cặp nhẫn dóng trúc cất vào hòm. Thêm nữa, lời ăn tiếng nói của cô cũng kín đáo nhẹ nhàng chứ không hồn nhiên thơ trẻ như vốn dĩ bản tính của cô, cũng không chanh chua đanh đá như khi cô phải chống trả những kẻ kình địch. Thành ra, ngay cả những người xăm xoi, móc mói nhất trong dân xã cũng không nỡ mở miệng chê bai.

Về phần vật chất, ông Quảng lại càng chú trọng hơn. Luật đời đã dạy:

" Có thực mới vực được đạo."

Kẻ từng trải không được phép quên nguyên tắc căn bản ấy. Cỗ trong đám giỗ đầu của bà Quảng phải sang hơn cỗ những đám cưới linh đình nhất từ trước tới nay. Có cả một đội quân xóm giềng phụ trợ nhưng ông Quảng vẫn thuê ba người đầu bếp duới tỉnh lên. Kèm theo họ là một xe đầy những thứ gia vị lẫn các loại phụ liệu và dụng cụ làm bếp mà người ta không kiếm được nơi sơn dã. Các bà các cô Xóm Tiều Phu được dịp tròn xoe mắt mà xem cách thức nấu ăn đặc biệt kiểu thị thành. Mấy gian bếp vì vậy lúc nào cũng đầy nghịt đám đàn bà hiếu kì, đứng vòng trong vòng ngoài dòm ngó. Vừa để học lỏm mấy ngón nghề, vừa để thoả cơn tò mò cố hữu. Đám giỗ vì thế lại có vẻ sầm uất của một thứ chợ phiên hay phòng triển lãm mà người ta chưa từng thấy ở các gia đình khác. Và như thế, chẳng ai còn có thể tính toán: Cỗ năm tầng hay bảy tầng ? Bởi cỗ của gia chủ làm theo kiểu thị thành, toàn bát lớn đĩa to, không bày trên mâm mà đặt lên bàn, do đó không thể đo được theo tiêu chuẩn cũ. Chỉ một điều ai cũng phải xác nhận, chưa từng có nhà ai làm cỗ sang trọng và ngon được như thế, kể từ ngày có Xóm Tiều Phu đến nay. Một ngày giỗ chính, hai ngày chuẩn bị trước và một ngày sau đó để thu dọn bàn ghế, chén bát, phát quà phát lộc cho những người giúp việc, dù trong họ hay ngoài làng, cả thẩy bà Tư móm tính vừa tròn một trăm tám mươi mâm, mâm ở đây có nghĩa phần ăn cho sáu người. Bà bảo:

- Ấy là còn thiếu người. Nếu đủ ắt hẳn phải tròn hai trăm mâm.

"Thiếu người" ở đây, ám chỉ sự vắng mặt của gia đình Quý. Anh ta làm cỗ riêng. Sự đương nhiên, sau khi bị ông bố từ bỏ. Đứng về lực, anh ta thua đứt ông bố đẻ. Mối quan hệ họ hàng, xóm giềng lẫn duyên giao tiếp cũng kém xa. Sức mạnh duy nhất của Quý là con triện anh ta đang giữ trong tay, mà bất cứ thời nào người ta cũng ngầm hiểu rằng cái con triện ấy chẳng phải củ khoai hay hòn đất sét. Thế nên tất thảy những ai đang ngấp nghế trước cửa xã cần một con dấu áp lên tờ giấy đều phải đến nhà ông chủ tịch xã "ăn giỗ đầu " bà Quảng. Một tay xách giỏ quà, tay kia sờ nắn trong túi cái phong bì đã được chuẩn bị kĩ lưỡng. Ngoài những gia đình đang cần chạy chọt cửa công, còn cánh thông gia của ông Quảng, tức là cha mẹ, chú bác, anh em ruột của vợ Quý cũng không dám đặt chân tới nhà ông bố. Thêm nữa, cánh cán bộ rường cột trong xã, những người ngày thường đang cùng ngồi một bàn với chủ tịch gồm bí thư đảng uỷ, công an trưởng, chi hội trưởng phụ nữ, trạm xá trưởng, cửa hàng trưởng của xã. Cả bộ sậu ấy cũng phải kéo nhau tới cửa nhà anh con. Cô Vui chơi trội, không đến nhà ai cả. Còn lại, đa phần người làng, họ đi cả hai bên bởi người ta cho rằng phận sự của mình là phải làm ngơ trước mọi hiềm khích và phải có mặt ở bất cứ nơi đâu có sự hiện diện của vong linh người đã khuất. Ăn giỗ nhà ông bố buổi trưa rồi quay về nằm nghỉ cho xuôi cơm hoặc tụ họp đâu đó chuyện gẫu cho qua chiều để chờ đến nhà ông con buổi tối. Thành ra giỗ đầu bà Quảng khiến biết bao người phải thực hiện một cuộc chạy việt dã mà họ không trù tính trước:

- Từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới nay tôi mới ăn một giỗ hai lượt như vầy.

- Tôi cũng vậy.

- Xưa nay liệu có nhà ai rơi vào cảnh oái oăm như thế này không ?

- Làm gì có ?

- Có, nhưng lâu lắm rồi, đời cụ cố nhà tôi có hai anh em bất hoà, không nhìn mặt nhau. Ngày giỗ bố, giỗ mẹ, anh làm riêng, em cũng làm riêng ; người trong họ ngoài làng đều phải đi hai lượt.

- Thế là đúng, mâu thuẫn gì chăng nữa họ cũng vẫn là người cùng máu thịt. Phận sự kẻ đứng bên ngoài là phải lấy chữ "dĩ hoà vi quý " làm đầu.

- Xưa nay chẳng ai dại dột làm mất lòng xóm giềng. Vả chăng, tốn công chạy đi chạy lại nhưng ăn cỗ hai nhà càng được dịp nhờn môi, khoái khẩu.

- Khoái khẩu chỉ có cỗ nhà ông Quảng... Cỗ nhà Quý thì quá thường. Rặt những đĩa lẫn bát nhưng mỗi đĩa lèo tèo vài miếng thịt.

- Ồ, chuyện đó chẳng phải nói. Vợ chồng nhà Quý xưa nay nổi tiếng rán sành ra mỡ.

- Tôi có câu này hay hơn: Ăn tép ỉa ra tóc.

- Nhà ấy xưa nay vẫn ỉ thế bố về mặt kinh tế. Giờ cha con từ mặt, chẳng hiểu rồi sẽ ra sao ?

- Tự làm lấy mà ăn.

- Xem chừng cũng gay go. Cả vợ cả chồng đều ốm nhách. Con Mơ nặng chưa nổi bốn mươi cân. Con Mận phốp pháp hơn thì lại mắc bệnh xuyễn.

- Đã thế còn gây hấn với bố đẻ làm gì ?

- Nghĩ như ông đã chả nên chuyện.

- Đúng thật. Nếu như ngày xưa, người ta sẽ bảo cậu Quý là kẻ bị" ma làm".

- " Ma làm" hay " Quỷ ốp" thì mọi sự cũng tự do mình mà ra. Các ông không nhìn thấy con mắt cậu ta hay sao ? Hai con mắt tối như hũ nút, mà đôi khi cậu ta cười nói với mình nhưng con mắt lại nhìn vào ai đấy. Nom cứ rờn rợn...

Cái sự " rờn rợn" mà những người dân Xóm Tiều Phu vừa hồ nghi vừa sợ hãi nhưng không thể cắt nghĩa ấy sẽ được phanh phui không lâu. Vẻn vẹn hai tuần lễ sau ngày giỗ đầu của bà Quảng. Nói một cách chính xác hơn là sau mười hai ngày. Trước đó vài hôm, trời mưa tầm mưa tã. Người ta chẳng thể lên rừng, cũng không thể ra nương. Mọi người đành ngồi nhà bày ra chuyện rang cốm, nấu chè hoặc đánh bài ăn xu lẻ. Hết ba ngày mưa, buổi sớm ngày thứ tư, người ta nghe tiếng con ngựa nhà ông Quảng hí mừng rỡ từng hồi dài từ lúc tinh sương. Hẳn mấy ngày mưa bị giam trong chuồng tù cẳng nên con vật bồn chồn muốn chạy. Nếu người nào dạy sớm ắt thấy bếp nhà ông đỏ lửa từ lúc trời còn tối như mực: Cô Ngân thổi cơm rồi đồ xôi ém cho ông Quảng mang theo dọc đường. Họ ăn cơm cùng nhau ngay trong gian bếp. Sau đó, cô nàng áo xanh ôm lưng ông chồng ra tận bờ dậu, rồi lại đứng ở đó mà nhìn theo xe cho tới lúc nó khuất hẳn sau các rặng cây. Cái lối ôm eo, khoác lưng, bá vai bá cổ giữa đàn ông với đàn bà nơi thanh thiên bạch nhật ấy, người ta chỉ nhìn thấy trên phim ảnh Liên-xô. Nó thuộc về thế giới và phong tục của các ông tây, bà đầm. Nó không quen với mắt người dân Xóm Tiều Phu. Vì thế, nó kích thích một cách đáo để tâm trí láng giềng. Lòng tò mò của con người, dẫu là già hay trẻ cũng luôn luôn là thứ phong vũ biểu báo hiệu sự quan tâm tới đời sống, dù nó thể hiện ở khía cạnh xấu xa. Cô Ngân không hay biết, nhưng ông Quảng thì tin chắc rằng ẩn nấp phía sau các cánh cửa, khuất sau các góc tường, giấu giếm sau các bụi cây... có rất nhiều cặp mắt đang thầm lén theo rõi họ. Dẫu biết rõ tâm địa của mọi người, ông vẫn hành xử theo cách người xưa dạy:

" Ngũ thập, tri thiên mệnh
Lục thập, hành như nguyện..."

"Năm mươi tuổi, biết được số phận mà trời đã ước định cho mình ;

Sáu mươi tuổi, ta hành động theo sở thích."

Dừng lại trước cổng, ông cúi xuống hôn cô nàng áo xanh, trước khi leo lên xe và ra roi cho ngựa chạy. Tiếng vó ngựa dập dồn, hung hãn khua động không gian êm ả của sơn thôn. Trong nhịp kiệu của con ngựa bị giam hãm bởi mưa gió, người ta cảm thấy sức mạnh bất khả kiểm soát lẫn sự bồn chồn nguy hiểm của một thứ tự do bị kìm nén, đầy đoạ.

Rồi khi tan sương, mặt trời vọt lên rất nhanh, sáng chói một cách bất thường khiến cho không gian oi nồng, tràn đầy mùi đất ẩm, mùi lá mục, mùi những đống phân xanh chưa oải. Từng luồng hơi ngùn ngụt run rẩy bốc lên khắp các khu vườn ướt sũng, từ những liếp rạ mủn trải dọc các bờ dậu để trồng nấm rơm, từ những đống vỏ trấu dân quê tích trữ để quanh năm mồi lửa, nhóm bếp. Trên các mảnh sân cũ, những hạt thóc sót hoặc những hạt cỏ rơi trong các kẽ gạch đã long vôi vữa nhất loạt đâm chồi sau mấy ngày mưa. Chỉ qua vài đêm, hàng ngàn sợi lá xanh non dựng lên như những lưỡi gươm tí hon dưới ánh mặt trời. Muôn vàn sợi cỏ trong suốt như thuỷ tinh, óng ánh như nạm vàng, những lá cỏ non dường như không còn là cỏ mà là vật gì đó không thể gọi tên, lạ lùng, kì ảo, chỉ hiện lên trong khoảnh khắc làm biến đổi cái nhìn buồn chán của con người, và đem lại một thoáng ngạc nhiên thần thánh cho cõi đời buồn tẻ.

Có thể vì lý do nào đó ít tính thơ mộng hơn, hay chính vì bàng hoàng trước khung cảnh hoàn toàn thay đổi của thiên nhiên mà đa phần dân Xóm Tiều Phu ở lại nhà vào buổi sáng hôm ấy. Nhiều người đã í ới gọi nhau lên nương làm cỏ sắn, nhưng sau rốt người ta lại dùng dắng ở nhà, để giặt mớ quần áo sau mấy ngày mưa, để thu dọn lại những đám rơm vương rạ vãi, để lau dọn lại góc buồng, xó bếp, những nơi ít được dòm ngó vì mưa xuống nắng lên, ắt nhiều thứ phải đổ mốc. Vả chăng, sau mùa hái nấm, người ta cũng cảm thấy chùn chân khi nghĩ tới việc phải leo lên những nương sắn, chui vào những luống cây ngột ngạt hơi nóng mà nhặt cỏ, một công việc chẳng mấy hứa hẹn đền bù.

Khoảng non trưa, chính vào lúc các bà các cô chuẩn bị nấu cơm, bỗng có tiếng chân người chạy rầm rập ngoài đường thôn. Thoạt tiên, chỉ là đám nhi đồng bốn năm tuổi, sau đó là đám thiếu niên hiếu kì. Sau rốt, tuốt

tuột dân làng, đàn ông cũng như đàn bà bỏ mọi việc dở dang trong nhà cũng như trong bếp để đi xem " Cô Ngân bị bắt ". Người ta chẳng ngại ngần, cũng không ngượng ngùng khi gọi nhau oang oang, từ sân nhà này vọng sang sân nhà kia, từ bờ dậu nhà này vói qua bờ dậu nhà khác:

- Này, biết chuyện gì chưa ? Cô vợ trẻ của ông Quảng bị công an bắt rồi. Hãy đến xem sự tình ra sao.

- Này, dừng tay cái đã. Đã nghe thủng chuyện chưa: cô nàng áo xanh nhà ông Quảng bị tóm cổ.

- Làm sao mà đến nỗi như vậy ?

- Có trát trên tỉnh dội về nói cô ta là gái làm tiền, chuyên đi lừa đảo những gia đình giàu có.

- Lừa ông Quảng ? Đúng là chuyện tầm phào. Ông ấy chẳng lừa ai thì thôi, làm gì có sự trái khoáy như vậy ?

- Ai chẳng biết ông ấy là kẻ khôn ngoan, lõi đời, ăn mòn bát cơm thiên hạ. Nhưng cái sự quan trọng là ông ấy đang bí bức. Gần một năm vợ ốm lại gần một năm vợ chết có rờ mó được ai đâu ?

- Không tin được. Lão ấy đi bát ngát mênh mông như thế, thiếu gì đàn bà ?

- Ông tưởng dễ lắm à ? Ông cứ thử xem ?

- Việc gì tôi phải thử, cơm nhà đồ vợ, muốn lúc nào tôi ngả ra lúc ấy. Chỉ sợ không đủ sức mà chơi .

- Bởi vậy ông mới dễ phét lác. Giờ nói dại, bà ấy mà thăng thiên, tôi đố ông dám mó vào con hến nhà láng giềng. Có mà dao rựa họ chém đứt phăng cổ.

- Thiếu gì lũ chưa chồng với goá chồng ?...

- Chưa chồng, như con Vui đấy, xin mời ông thử sức ! Goá chồng, như con mẹ Hưởng rỗ với con Lan toét thôn Hạ, ông có chơi tôi xin đãi thêm ba bữa rượu tăm với gà sống thiến hấp xôi. Nào, dám chơi không ?

- Ừ, ngữ ấy thì xin chịu.

- Thế là sự đời. Cao chẳng tới thấp không xong. Chỗ ông thích, không được. Chỗ giường kê, chiếu trải sẵn sàng, con củ lại không giương lên nổi. Cho nên mới thành ra bí bức. Khi bí bức có đứa xinh đẹp như tiên nó tiến đến, nó ngả sẵn bàn đèn, có mà khôn ngoan như thánh như thần cũng đổ huống chi ông Quảng ?

- Nhưng tôi nom mặt mũi cô ta chẳng giống quân lừa đảo.

- Biết sao được cái tổ con chuồn chuồn. ? Những con đàn bà làm điên đảo quốc gia hoặc làm khuynh gia bại sản kẻ khác xưa cũng như nay đều phải xinh đẹp. Xoàng xoàng như vợ ông hay lặc lè cục mịch như vợ tôi có mà ăn cám. Muốn đi lừa cũng chẳng xong.

- Ông chỉ quen nghĩ chuyện bậy bạ.

- Tôi ăn cơm muối, sờ đầu gối nói thật. Tôi không quen hoa hoè hoa sói , nói vòng vèo.

- Nhưng tôi vẫn không thể tin rằng ông Quảng bị lừa. Chuyện đó giống như sự gà bốn cựa, ngựa bốn hồng mao.

- Ông Quảng khôn ngoan thật, nhưng xét trên gốc rễ ông ấy cũng chỉ là thằng nông dân chân đất như cánh ta thôi... Chẳng qua ông ấy giỏi bang giao, lại suốt đời kiếm cơm nơi đất khách thành ra lọc lõi... Nhưng lọc lõi đến đâu cũng có lúc phải mê mụ đầu óc vì khuất phục cái bộ sậu lủng lẳng trong đũng quần... Ông có biết cái câu người ta vẫn dùng để chể riễu kẻ sĩ hay không ?

- Kẻ sĩ là gì ?

- Là đám áo dài xúng xính, tay trắng chân trắng, ngược với chúng ta dân cày cuốc hay tiều phu, cánh áo ngắn chân đen. Thời xưa nói: " Nhất sĩ nhì nông ". Kẻ sĩ bao gồm đám văn nhân, quân tử, bao gồm cả các bậc quan lớn quan nhỏ, cả đám nha lại lo việc triều chính từ kinh đô cho tới làng thôn... Vậy mà có câu rằng:

" Văn chương chữ nghĩa bề bề
Thần l... ám ảnh cũng mê mẩn hồn. "

- Thế à ! Tôi không biết...

- Không biết thì phải lắng nghe rồi hãy nói. Cớ sao ông cứ khẳng định rằng ông Quảng chẳng thể bị lừa ? Sự đời đâu có đơn giản như ông tưởng ?

- Ờ, có thể...

Có thể hay không thể... đinh ninh chắc chắn hay nửa tin nửa ngờ, sau rốt người ta cũng vẫn nghĩ rằng có sự chi hợp lý, có một duyên cớ nào đó chính đáng dẫn tới sự bắt cô Ngân. Dân làng đổ ra đứng dọc đường để nhìn cô vợ trẻ của ông Quảng bị trói giật cánh khuỷu, dẫn độ bởi nhóm du kích xã, đi đầu là công an trưởng. Ứơc tính tất cả là mười hai người đàn ông, súng ống trên vai, vẻ mặt cứng như đá vỉa. Cuộc diễu võ dương oai không được hoành tráng cho lắm bởi kẻ thù vẻn vẹn có đúng một người đàn bà trẻ, chẳng tấc sắt trong tay, hơn nữa nước mắt lại ràn rụa trên gương mặt tái nhợt vì hốt hoảng nhưng vẫn còn muôn phần xinh đẹp. Đi sau họ, có đến trên ba chục thanh thiếu niên hiếu kì làm thành một đám khán giả tự nguyện và hết sức chú tâm. Thi thoảng, một cậu du kích muốn chứng tỏ uy lực của chính quyền quay lại quát nhặng xị:

- Giải tán ! Lũ ranh này, giải tán !

- Về nhà đi học, đây không phải phận sự của chúng mày.

- Về !Tao đã bảo về nhà !

Nhưng mọi sự doạ nạt đều như nước đổ lá khoai. Đám trẻ con hiếu kì chạy nhông nhông theo họ cho tới tận uỷ ban xã, giống một đám rước thiếu kèn thiếu trống. Tại trụ sở uỷ ban, chúng chạy dạt sang hai bên nếu bị xua đuổi, nhưng khi đám du kích sao nhãng, chúng lại lập tức chui lủi, len lỏi bằng mọi cách để chứng kiến "cô Ngân nhà ông Quảng" bị trói, cái cảnh mà từ năm cải cách tới giờ không còn diễn lại nơi Xóm Tiều Phu. Rồi khi cô tiếp tục bị áp tải đến nơi tạm giam theo lệnh chính quyền, chúng lại rều rễu chạy theo cho đến tận kho chứa đồ của xã, cách trụ sở uỷ ban chỉ một đoạn đường, đi bộ chưa đầy năm phút. Ấy là một gian nhà gạch nhỏ, kín mít như cái hộp, chỉ vẻn vẹn một cửa ra vào cánh gỗ lim, lại khoá bằng chiếc khoá đại to hơn bàn tay đứa trẻ lên bốn. Còn lại bốn bề tường gạch đôi, chẳng một lỗ thông hơi, không một khuôn cửa sổ. Ngôi nhà đó xưa kia vốn là kho chứa chè của ông chánh tổng. Sau, đến thời cải cách, chính quyền cách mạng trưng dụng để nhốt đám địa chủ cường hào. Có giai đoạn hơn một chục con người bị giam cầm trong cái không gian kín bưng bít, rộng mười tám thước, một góc đổ tro để đại tiểu tiện, và góc đối diện là một cái chum vỡ đựng nước uống cho các tù nhân. Sau ngày sửa sai, lệnh của huyện là phải đập vỡ gian nhà ấy đi, nhưng chủ tịch xã tiếc rẻ giữ lại... vì còn hữu ích. Tất nhiên, ông ta đã cho người đến quét dọn, sửa sang, quét vôi mới trắng lốp để màu vôi bôi xoá đi những kỉ niệm cay đắng và tẩy uế xú khí còn lưu lại. Từ đấy, gian nhà này được dùng làm nhà kho của xã, nơi xếp các thứ bàn ghế, xoong nồi, mâm chậu, bát đĩa, tách chén... những vật dụng cần thiết cho những dịp liên hoan hoặc tiếp đãi khách của chính quyền. Ban văn thể xã, hoạt động theo mùa cũng xếp vào đấy những tấm băng-rôn, khẩu hiệu, những bộ kèn trống mua vội vã trong những cơn bốc đồng của đám cán bộ lãnh đạo. Lủng củng một góc nào những chiếc trống đã long tang hoặc đã bị thủng, hai cây kèn rỉ nhoét, một cây ghi-ta và hai cây măng-đô-lin trơ trọi không dây, một mớ cờ gián nhấm mà chưa nỡ ném đi.

Khi tay trưởng công an xã đích thị mở khoá, cả một lũ chuột nhảy phóc ra, chui qua chân anh ta bổ ra bên ngoài rồi nhanh chóng biến mất trong các bờ dậu bên kia đường. Cùng lúc đó không khí tù hãm bốc lên như luồng hơi phà vào mặt mọi người mùi nước đái chuột lẫn mùi ẩm mốc.

- Nhà chị vào đây.

Cậu du kích dẫn cô Ngân tới cửa rồi bắt đầu cởi trói. Lúc ấy mọi người mới nhìn thấy tấm áo của cô bị rách một vệt dài dưới nách. Hẳn là khi bị bắt, cô đã chống trả và xảy ra sự giằng co xô xát giữa tội nhân với những người thi hành công vụ. Cũng hẳn là cô đã khóc quá nhiều nên lúc được cởi trói, cô có vẻ uể oải đờ đẫn đến nỗi chẳng buồn nhúc nhắc cánh tay. Chính cậu du kích áp tải cô phải lần mở từng vòng dây cho đến nút thắt cuối cùng:

- Nhà chị vào trong kia ! Điếc hay sao mà đứng đần ra thế hả ?

Cô Ngân thẫn thờ đứng im, dường như không nghe thấy tiếng quát của kẻ áp giải mình. Đôi mắt đầm đìa lệ như mờ đi vì sợ hãi và kiệt sức.

- Đã nghe lệnh tạm giam rồi sao không thực hiện ?

Trưởng công an xã quát. Sau đó, thấy kẻ tội đồ chẳng nghe cũng chẳng có phản ứng gì, anh ta giơ tay đẩy vào lưng người đàn bà:

- Vào trong kia !

Giơ tay chỉ gian nhà lủng củng những thứ đồ tầm tầm và bốc mùi hôi mốc, anh ta dằn giọng:

- Đi vào ! Chỗ của nhà chị bây giờ là trong đấy.

Cô Ngân bị đẩy đi như một bao tải đựng trấu, rồi cô cũng ngã kềnh như bao tải trấu lên những sọt đựng xoong nồi, bát đĩa của uỷ ban. Trưởng công an xã kéo hai cánh cửa, khoá lại rồi nói trống không:

- Từ giờ đến tối sẽ có người đem cơm cho nhà chị.

Sau đó, quay lại đám du kích tuỳ tùng, anh ta cũng lại buông một cái lệnh trống không:

- Liệu mà phân công người sắp cơm cho y thị. Ngày mai, chính quyền sẽ phân xử.

Sau đó, trưởng công an xã tiến lên vài bước về phía đám trẻ con lẫn dân chúng hiếu kì, đưa mắt oai vệ nhìn khắp lượt. Đám người lặng im như thóc, giương mắt nhìn vị đại diện của quyền lực. Một nỗi sợ hãi đã từ lâu yên ngủ bỗng nhiên bừng thức dậy khiến họ nhút nhát và bối rối . Chờ cho khoảnh khắc im lặng trôi qua, trưởng công an xã hắng giọng như diễn viên chuẩn bị ra sân khấu, trong lúc thầm chuẩn bị một diễn văn mà bắt buộc anh ta phải công bố cho tương xứng với chức trách cá nhân cũng như tầm quan trọng của tình huống vừa xảy ra:

- Bà con hãy lắng nghe cho rõ. Nhiệm vụ của mọi người dân là lao động. Và lao động là vinh quang. Vì vậy tôi yêu cầu bà con quay về với công việc. Chúng ta không nên lãng phí thời gian sản xuất. Còn những tệ nạn xã hội, chúng tôi, đại diện của chính quyền, có nhiệm vụ giải quyết. Trước hết, cá nhân tôi, trưởng công an xã, xin hứa trước toàn thể bà con là sự việc sẽ được giải quyết một cách triệt để. Chúng ta sẽ tiêu trừ tận gốc rễ mọi nguy cơ độc hại để bảo vệ đời sống chung của cộng đồng cũng như hạnh phúc dưới mỗi mái nhà. Nào, bà con có ý kiến gì nữa không ?

Nhà hùng biện dừng lời đưa mắt nhìn mọi người.

- Hoan hô !

Một người lên tiếng, chắc chắn đó là kẻ đang cần xin nhà chức trách áp con triện vào bản lý lịch cho con em được "thoát li". Nhưng đám đông im lặng. Có lẽ vì bài diễn văn hay ho kia chưa kịp thấm vào cân não họ. Cũng có lẽ vì cảnh một người đàn bà bị trói giật cánh khuỷu khiến họ nhớ lại thời cải cách ruộng đất, và những nỗi hãi hùng quay lại khiến con người hoang mang. Điều cuối cùng là trong đám đông hiếu kì ấy, không ít kẻ đã chịu ơn hoặc là thực khách thường xuyên nhà ông Quảng. Dẫu sao chăng nữa... cũng đã từng có lúc chén chú chén anh, chén tôi chén bác. Đã là giống người ắt phải hiểu câu: chẳng nỡ hoặc, nỡ lòng nào...

Người cất tiếng hoan hô không thấy ai hưởng ứng thì bẽ bàng lẩn ra phía sau. Còn trưởng công an xã thấy bài diễn văn hùng hồn của mình rơi vào im lặng thì bẽ bàng tức tối, liền đổi giọng quát:

- Không ai có ý kiến thì nữa thì giải tán.

Nói xong, anh ta bỏ đi tức khắc. Đội du kích lục tục theo . Còn đám đông hiếu kì dừng lại nhìn ổ khoá to tướng một cách bần thần, chẳng ai nói với ai một lời. Riêng lũ trẻ tò mò chạy tới, dán mắt vào khe cửa hòng nhìn được "tù nhân" nhưng sau một hồi loay hoay đành thất vọng bỏ đi vì hai cánh cửa lim của "ông chánh tổng thời xưa " kín như bưng không một lỗ thủng bằng đầu đinh, cũng không một kẽ hở mảnh như cọng tăm dù đã qua bao nhiêu năm tháng.

Lúc ấy, mặt trời vừa đứng bóng. Những kẻ hiếu kì nhất cũng phải quay về vì kiến bò bụng. Người ta nấu cơm vội vàng, hò hét con cái cũng vội vàng, ăn cơm cũng vội vàng để sau đó đi đến nhà ông Quảng xem sự tình ra sao. Ở đấy, hai cánh cổng mở toang hoang, nhưng chớ ai hòng chôm chỉa vật gì vì bà Tư móm đã ngồi chồm chỗm ngay trên bậc cửa chính. Từ bậc cửa ấy, bà có thể nhận diện ra từng người khi họ bước vào cổng. Và bà cất tiếng đon đả như không có chuyện gì xảy ra trên đời:

- Mời các ông bà vào uống nước. Hôm nay được dịp nghỉ ngơi cho đỡ nắng. Trời này chui vào nương sắn cũng như chui vào hoả lò.

- Thế mà có người vẫn lên nương đấy.

- Thiếu gì kẻ ngu trên đời. Mà trong lũ ngu ấy có tôi đây. Nếu không sáng nay tôi đã ở nhà để chứng kiến cho tỏ tường mọi sự.

- Vậy bà vừa mới đến ?

- Cũng được ngót nghét một giờ. Tôi đang làm cỏ sắn thì thằng cháu chạy lên báo. Hai cô cháu chạy thốc chạy tháo về được đến nơi thì mợ Ngân đã bị mang đi rồi. Chỉ còn vợ con thằng Quý đang đứng ngoài sân. Chúng nó được phái đến để giữ nhà cho ông nội. Tôi đuổi tuốt tuột cả lũ về.

- Sao bà dám làm thế ?

- Sao tôi lại không dám nhỉ ? Thằng Quý là chủ tịch xã nhưng cũng còn là em tôi. Mẹ nó đẻ nó ra hết sài lại đẹn, một tay tôi chăm bẵm. Cái đận bẩy tuổi, nó mắc bệnh ghẻ suốt mùa xuân qua đến mùa hè, tôi cúi xuống lấy cái ghẻ cho nó đau sụn cả lưng, mờ cả mắt. Rồi cũng lại tôi đun nước lá tắm, xức thuốc cho nó lành. Mẹ nó vụng thối vụng nát có làm được gì đâu ? Từ khi lên ghế chủ tịch đến nay, xem ra chiều vểnh râu vênh mặt . Bọn du kích và trưởng công an xã dám ra tay như thế này ắt hẳn phải có lệnh của nó. Con mà đã bỉ mặt bố đẻ đến mức ấy thì chẳng còn là người.

- Nhưng nghe đâu đó là lệnh của tỉnh.

- Nếu là lệnh của tỉnh thì phải có công an tỉnh, không phải mấy cái mặt phèn phẹt ở xã này. Trong số mười thằng du kích vào nhà này trói mợ Ngân có sáu thằng chui từ háng mẹ nó ra là tay tôi cắt rốn, tay tôi tắm rửa. Rồi tôi sẽ đến nhà từng thằng đập váy vào mặt chúng nó. Để xem chúng nó dám làm gì tôi ?

- Chẳng qua chúng nó cũng chỉ là lũ tốt đen. Trên bảo gì thì phải cúi đầu làm nấy.

- Thời cải cách chẳng thiếu gì kẻ trên bảo tố bố tố mẹ là sẵn sàng nhổ vào mặt bố mẹ hoặc gọi bố mẹ là quân phản động, là đồ Việt gian. Những hạng người ấy rồi có ra gì đâu ?

- Đúng là lũ ấy rồi cũng chẳng ra hồn người, nhưng khi bị sai bảo chúng làm sao dám chống lại ?

- Lửa thử vàng. Người tử tế quân bất lương khác nhau ở lúc gian nan. Bình thường trơn lông đỏ da ai chẳng há miệng cười. Lúc vui vẻ, ai chẳng giơ tay vỗ.

Bà Tư móm kết thúc đột ngột cuộc đối thoại như vậy và chuyển làn nhanh như chớp:

- Nhà này có đường phèn thượng hạng , ông bà nào thích uống trà ướp cúc với đường phèn tôi mời ?

- Cúc vạn thọ ấy a ?

- Bà chị chẳng hiểu gì hết. Cúc vạn thọ không ướp được trà. Mà có ướp cũng phải đổ trà đi vì nó rất hắc. Người ta chỉ ướp bạch cúc hoặc tiểu hoàng cúc tức là loại cúc vàng nhỏ như khuy áo thôi .

- Nào ai sành chè ướp như nhà bà mà biết được ?

- Trời mới nắng lên uống trà cúc cho thanh giọng. Nào, xin mời các ông các bà.

Cái cách cắt chuyện và chuyển khúc của bà Tư móm xem ra còn giỏi hơn các nhà dàn cảnh sân khấu. Dân làng tuy mót chuyện nhưng cũng không dám hỏi thêm. Khi mùi trà cúc thơm ngào ngạt toả hương , khi bình đường phèn lấp lánh như những cục thuỷ tinh nhỏ được bày lên mặt bàn thì người ta quay sang xì xụp uống trà ngọt. Vị ngọt thanh tao của đường phèn khiến cho hương cúc có một vẻ lâng lâng trong suốt như khi con người đứng giữa một nỗi buồn đã trôi xa và một niềm vui đang còn chờ đợi. Câu chuyện xoay sang những cách thức ướp trà, cách sao trà và đóng gói trà từ thời ông chánh tổng. Người Xóm Tiều Phu hấp háy nhìn lên đỉnh Lan Vu để mơ tưởng ngày nào đó, một vị cao nhân mặc áo thụng thêu chỉ vàng lộng lẫy sẽ bước tới góc núi hẻo lánh này bày cho họ cách trồng và sao cất loại trà thượng hảo hạng như trà: Trảm mã... Bởi nghe đâu, giá bán một cân trà Trảm mã đủ xây một toà lâu đài bốn tầng, với mười sáu căn buồng thênh thang, cửa kính cửa chớp sáng loáng như buồng của những khách sạn sang trọng ở thủ đô Hà nội.

Tuần trà kết thúc ,mặt trời đã ngả qua phía tây. Bóng nắng đổ xuống một phần ba mảnh sân gạch. Đồng hồ treo tường nhà ông Quảng thong thả gõ ba tiếng. Khách chào chủ ra về. Người ta không thể ngồi thêm vì đã qua mấy tuần trà, dạ dày chẳng còn chỗ chứa mà những điều tò mò lại không được phép hỏi . Vào giờ này, chẳng ai còn lòng dạ nào lên nương xuống ruộng. Ai nấy quay về nhà, thu dọn đồ đạc, người lật giở tấm chăn manh chiếu cho khô ròn, kẻ ra sau vườn nhà tỉa cành, rẫy cỏ, toàn những công việc nhung nhăng cho hết buổi chiều để chờ sau bữa cơm sẽ có cơ tụ họp.

Bởi mong mãi, mặt trời cũng rơi xuống để bữa cơm tối được dọn lên trên những mảnh sân mà bên dưới, gạch còn ấm nóng, nhưng bên trên gió núi đã ùa xuống phà làn hơi mát rượi như những nụ hôn ẩm ướt của sương mù. Người ta ăn vội ăn vàng, đàn ông không uống rượu, đàn bà không nghê nga cắn thóc rang hay nhâm nhi bỏng ngào mật sau bữa cơm để mau mau lên đường. Tất cả đều phải chuẩn bị đèn, đuốc bởi nơi đây, trời tối một cách mau lẹ. Mươi phút trước còn nhìn rõ bàn tay, mươi phút sau cảnh vật đã đen như mực. Từ thôn Thượng, thôn Trung tới thôn Hạ, mọi ngả đường đều lập loè ánh lửa. Một địa chỉ không ai bảo ai nhưng mọi người đều hướng tới: nhà cô Vui. Thế là không hẹn mà nên, dân xã dồn tới trước cửa nhà cô bí thư đoàn. Cả một đám đông, người cầm đèn pin, người xách đèn bão, kẻ mang đuốc dầu hoả cháy đùng đùng. Nhưng cửa ngõ nhà cô Vui đã khoá lại bằng một ổ khoá Tầu to tướng. Nhìn vào trong, sân lẫn nhà đều tối om:

- Quái lạ , nhà cô này đi đâu nhỉ ?

- Sáng nay có người còn thấy cô ta ra cửa hàng mua vải mà.

- Hay cô ta ở nhà tay Quý ? Lúc bắt cô Ngân chỉ có xã trưởng công an với đội du kích , chẳng thấy tay Quý đâu.

- Tay Quý kí lệnh cho trưởng công an thực hiện. Anh ta tránh mặt, đương nhiên là như thế. Ai đời con trai trưởng dẫn quân đi tom cổ mẹ kế bao giờ ? Hoạ có là đồ tể .

- Thế cô Vui can cớ gì mà cũng phải tránh mặt ?

- Ông quên rằng chính cô ta nhận lệnh của Quý về tận làng Khoai điều tra lý lịch cô Ngân lẫn chuyện ông Quảng xây nhà tầng cho bố vợ hay sao ? Cả xã này cô ấy là người duy nhất truy đến tận cái tổ con chuồn chuồn.

- Như thế, không là cánh tay phải thì cũng là cánh tay trái của ông chủ tịch.

- Thể nào, tôi thấy họ thậm thụt với nhau, ra vẻ đặc biệt thân tình.

- Ối chao, bắc thang mà hỏi ông trời. Tình đời ấm lạnh là chuyện thường. Họ từ mặt nhau rồi .

- Sao ông biết ?

- Bữa tôi kéo mấy bao than về ngang qua nhà cô Vui, thấy tay Quý hầm hầm bước ra mặt thâm như l... trâu vậy. Mấy hôm sau gặp cô Vui, tôi giả tảng hỏi thăm Quý thấy mặt cô ta cũng sưng lên như cái lệnh vỡ, đáp chủng chẳng: Tôi không biết, tôi chẳng liên quan gì tới ông Quý.

- A, ông này chết nhá... Sao dám ví mặt chủ tịch thâm như âm hộ con trâu ? Tôi mà mách thì ông chết toi.

- Tôi thách ông mách đấy..." Thâm như l... trâu" là câu ví tự xửa xưa. Tôi cứ theo thế mà nói .

- Đùa tí thôi, nhưng tôi không ngờ họ lại bỏ nhau nhanh như vậy.

- Ôi chao, người với người giằng néo nhau cũng như cái nút lạt: cởi ra rồi lại buộc vào, buộc vào rồi lại cởi ra như bỡn. Trên đời này có cái gì bền đâu ?

- Nhưng cậu Quý là chủ tịch. Chẳng nhẽ bí thư đoàn lại dám qua mặt cấp trên ?

- Cái đó thì chỉ có trời mới biết. Thôi, về ngủ, sáng mai còn làm cỏ sắn. Mai không làm để dăm hôm nữa nó ăn xuống gốc có mà hà hết củ. Bao nhiêu công trồng trọt, chăm bẵm mất toi.

- Ông nói chí phải. Đành là sắn chẳng ra mấy tiền nhưng cũng đủ cho ta thứ nuôi lợn và hạt bột dành những ngày cơ nhỡ. Chẳng nên bỏ phí của trời. Về !...

Thế là người ta lục tục kéo nhau về, bởi mất cả ngày để theo rõi một tấn tuồng như vậy kể cũng đã là đủ. Rồi mai đây, sự gì đến sẽ phải đến. Còn họ, những nương sắn đang đợi chờ.

Ánh lửa lại lập loè tản ra trên những ngả đường ngoằn ngoèo lượn qua các miệt vườn và các giải núi. Tiếng trò chuyện tan loãng trong khung cảnh bao la huyền tịch của trời đêm.

Trên đỉnh Lan Vu, chợt một vệt lửa phóng qua như pháo thăng thiên. Ai đó cất tiếng:

- Ô , sao chổi. Sao lại có sao chổi vào tiết xuân ?

- Không phải sao chổi đâu, đấy là sao rụng. Khi sao rụng là có người vừa tạ thế .

- Chim cú kêu hoặc chim lợn kêu là có người khuất núi. Chứ sao rụng là điềm báo rằng có một ông thánh hết hạn lưu đày dưới trần gian bay trở về cõi Thiên đình.

- Thật vậy sao ? Trời đất thật lạ lùng...

Ngày hôm sau, mưa lại rơi sầm sập.

Thế là ý đồ lên nương làm cỏ sắn bị bãi bỏ. Người ta thở dài vì càng mưa, cỏ sẽ mọc càng dày, rễ đâm xuống nhanh như thổi, chẳng mấy nỗi chúng sẽ chọc ngang thân các củ sắn non. Sắn đã bị cỏ đâm, không hà thối thì cũng nhạt thếch hoặc ngai ngái đắng, chỉ dùng nuôi lợn chứ không thể làm thức ăn cho người. Tuy chẳng đáng bao tiền, nhưng công chăm bẵm cũng không ít. Vì thế, ai nấy đều sốt ruột, chẳng ai còn lòng dạ nào chơi bài hay rang ngô. Họ đành đội áo mưa ra nhổ cỏ vườn, không làm việc nọ phải làm việc kia, có phải dân ăn trắng mặc trơn đâu mà dám chơi mãi?

Qua ngọ, mưa tạnh hẳn. Cũng vừa xong bữa cơm trưa. Người ta đang ngồi uống nước, xỉa răng thì nghe còi ô tô toe toe ngoài đường thôn. Cái thứ tiếng động hiếm hoi này bình thường ra chỉ nghe thấy mỗi năm đôi lần. Vào tất niên ấy hẳn là tiếng xe của đội chèo lên diễn. Còn năm thì mười hoạ, ấy là tiếng xe của phái đoàn y tế về kiểm tra các loại bệnh nghiêm trọng như sốt rét rừng, viêm gan, bạch hầu, hoặc bệnh phụ khoa cho đám đàn bà, con gái. Với người dân Xóm Tiều phu, tiếng còi ô tô đồng nghĩa với một biến cố vui mừng, vì cùng với nó là sự xuất hiện của các nàng tiên môi son má phấn, váy áo long lanh rực rỡ dưới ánh đèn, hoặc sắc áo bờ-lu trắng của các bác sĩ. Theo thông lệ, cứ nghe tiếng còi, là mọi người ơi ới gọi nhau:

- Phái đoàn khám phụ khoa đã về...

Hoặc là:

- Hôm nay là phái đoàn tiêm phòng bạch hầu, các bà đã chuẩn bị cho trẻ con chưa ?

- Hôm nay đội kế hoạch sinh sản sẽ làm việc. Nhà chị đã làm đơn trình bày và xin con dấu xã để tháo vòng hay chưa?

V... và... v... v...

Vì đã từ nhiều năm nay, mọi sự diễn ra theo một công thức không ngoại lệ nên buổi trưa hôm ấy, khi nghe tiếng còi, người ta ngơ ngác hỏi nhau:

- Quái lạ, đoàn nào nhỉ ?

- Sao chẳng thấy ai phổ biến ? Cả chủ tịch lẫn phó chủ tịch, cả bí thư phụ nữ lẫn bí thư thanh niên ?

- Chẳng lẽ lại là chương trình bổ xung đặt vòng, triệt sản ?

- Chương trình triệt sản tạm dừng rồi. Nghe nói trung ương đang bàn lại...

Tuy nhiên, dù có biết hay không biết đích xác tiếng còi xe ấy là của ai, người ta vẫn đổ ra xem, như xem một màn chèo, như xem một gánh xiếc rong, giống hệt những kẻ hiếu kì chốn thị thành thường xúm đông xúm đỏ xem một con điên xổng bệnh viện trần truồng khoe vú lẫn khoe mông trên hè phố. Trên con đường cát chạy xuyên qua ba thôn, một chiếc xe jep sơn màu cỏ úa, mui xe cũng là vải bạt màu cỏ úa, đang bò túc tắc như con cánh cam. Đường đã hẹp, lại khấp khểnh, gồ ghề. Xe lách chầy chật giữa hai rặng trúc, đôi lúc nhảy tâng tâng trên một khúc vòng, đôi lúc chúi đầu vào khe kẹt giữa hai vườn cây um rùm. Sau đó, nó buộc phải lùi lại, húc đít vào bờ đường đối diện rồi mới bẻ lái đi tiếp. Mặc dầu cuộc hành trình vất vả, trầy trật, chiếc Jep vẫn lùi lũi tiến thẳng đến thôn Thượng, kéo theo sau nó một đám trẻ chừng hai chục đứa, đứa nào đứa nấy toe toét cười, vừa chạy vừa nhẩy cẫng lên hò hét, mặc kệ lớp bụi mù mịt phả vào đầu vào mặt. Đến giữa thôn Thượng, người lái thò cổ ra hỏi dân đứng hai bên đường:

- Xin bà con cho biết nhà chủ tịch Quý ?

Lúc ấy, người ta mới nhận ra chiếc xe này chở toàn công an, và người lái xe cũng là công an nghiêm chỉnh trong đồng phục. Một làn chớp nhạy bén lan truyền rất nhanh dọc theo đám dân thôn:

- Xe công an đến nhà chủ tịch Quý !...

- Từ hồi cải cách đến nay mới lại thấy xe công an về.

- Chắc chắn xe đến bắt cô Ngân lên tỉnh .

- Đúng, tỉnh mới có quyền xét xử. Có phải thời cải cách đâu mà cấp xã có quyền lập toà án ? Thằng nào hôm qua tuyên bố chính quyền xã sẽ xét xử cô Ngân là nói láo .

- Xã trưởng công an chứ thằng nào.

- Xã trưởng mà nói thế cũng là nói láo. Cấp xã mà có quyền xét xử thì lại đầu rơi máu chảy, rồi lại sửa sai dăm bẩy lần.

- Thế sao hôm qua ông không lên tiếng ? Tôi cũng thấy mặt ông trước cái nhà kho giam cô Ngân ?

- Ăn có lời mời, cất nhời có người thỉnh... Đương nhiên nói trống không giữa trời hoạ có lũ điên.

- Thôi, lặng im mà xem. Họ tới nơi rồi kìa...

Dân làng đổ tới đứng nghẹt lối rẽ vào nhà Quý. Họ chờ đợi ông chủ tịch quay ra cùng với bốn anh công an tỉnh để đi tới nhà kho giam cô Ngân. Một số người không thể lách vào gần đã tranh thủ đi trước đến nhà kho để chờ lúc tội nhân bị dẫn lên xe, bởi đó chính là cảnh kích động trí tò mò cũng như lòng thương cảm.

Chừng hai mươi phút sau mới thấy tốp công an quay ra cùng chủ tịch Quý. Nhưng ông chủ tịch không có chút mẽ nào của kẻ cầm quyền. Những người đứng xa thì thấy anh ta cúi đầu đi cung cúc, mặt không còn chút máu. Đến cửa xe, anh ta leo lên, chui tọt vào trong, ngồi nép tận góc xe để khỏi nhìn thấy ai và cũng không bị ai dòm ngó. Những người đứng gần nhìn rõ mồ hôi toát đầm đìa từ trán lẫn hai thái dương Quý chảy dọc theo gương mặt dài và nhọn, loang xuống tận cằm. Họ còn nhìn rõ hai bàn tay anh ta run như giẽ, cặp môi trắng bợt như môi kẻ sốt rét kinh niên cũng run đến nỗi không thể mím lại được, và cặp mắt sâu tối như hũ nút của anh ta bỗng nhiên bạc hết màu. Tất thảy vẻ lạ lùng ấy khiến đám đông nín thở. Linh cảm mách bảo cho họ điều gì đó nghiêm trọng sắp xảy ra. Khi chiếc xe quay bánh để tiến về phía nhà kho, dân đứng dạt sang hai bên đường, không ai nói với ai một lời. Rồi khi xe rời bánh, họ lặng lẽ bám theo xe mà đi, giống một đám đưa tang hơn là đám đông hiếu kì tìm cách thoả mãn cơn tò mò bệnh hoạn.

Chiếc jep dừng lại trước kho, tốp công an nhẩy xuống trước rồi mới đến Quý. Anh ta bước lên để mở ổ khoá, nhưng loay hoay mãi không làm nổi khiến cho một người trong số bốn công an phải giằng chùm khoá và tự tay mở ra. Hai công an khác tiến vào trong gian nhà tạm giam để một phút sau đó quay trở ra cùng với cô vợ trẻ của ông Quảng, mặt đầy những mụn đỏ vì muỗi đốt. Người cuối cùng, ắt hẳn là sĩ quan lãnh đạo nhóm, quay lại hỏi Quý:

- Anh còn muốn nói gì nữa không ?

Không thấy Quý trả lời .

Người công an đã mở khoá gian nhà kho giờ rút từ trong túi quần ra một chiếc còng số tám, mở còng và chìa ra trước mặt Quý, không nói thêm một lời. Quý cũng không nói một lời, im lặng như xác chết, anh ta đưa hai bàn tay vào ổ còng, trước vẻ kinh ngạc sững sờ của tất thảy dân chúng, kể cả cô Ngân.

Người sĩ quan lúc đó đưa mắt nhìn nạn nhân vừa được giải phóng:

- Chị có cần chúng tôi đưa về tận nhà hay không?

- Dạ...

Cô Ngân đáp một cách máy móc, dường như chưa kịp hiểu người ta hỏi gì. Anh công an nhắc lại, giọng nhẹ nhàng hơn:

- Chị có thể tự trở về với gia đình hay muốn chúng tôi đưa chị về ?

- A... Không... Em có thể đi về được... Cảm ơn các anh.

- Vậy thì chào chị, và chúc chị mau trở lại cuộc sống bình thường.

Anh ta nói, với giọng trầm tĩnh nhưng không che giấu nổi mối thiện cảm tự nhiên mà bất cứ người đàn ông nào cũng nảy sinh khi đứng trước một người đàn bà đẹp.

- Vâng, em xin chào các anh, và cảm ơn các anh.

Cô Ngân đáp. Vẻ linh hoạt đã bắt đầu trở lại.

Tốp công an áp giải Quý lên xe. Rồi chiếc xe lăn bánh. Dân Xóm Tiều phu đứng như đám phỗng nhìn theo . Họ cứ đứng như vậy cho đến khi đám bụi đã hoàn toàn lắng và tiếng động cơ không còn nghe thấy nữa. Rồi một bà nào đó chợt lên tiếng:

- Khổ thân cô, muỗi đốt chi chít như cám thế này. Ấy là mới chỉ một đêm. Cái đận cải cách ruộng đất, chị tôi còn bị giam đến mấy tháng.

- Kể làm gì thời cải cách, người biến thành quỷ, quỷ đội lốt người hiện hình.

***

Ngay đêm hôm ấy, ông Quảng về làng .

Những người láng giềng gần nhất nghe cô vợ trẻ gào lên như đứa trẻ bị đòn khi ra mở cổng:

- Trời đất ơi, anh đi đâu để cho con anh hành hạ tôi như thế ?

- Tôi có tội tình gì mà phải chịu đoạ đầy, sỉ nhục như con điếm ? Chỉ vì yêu thương anh, làm vợ anh mới nên nông nỗi này đây...

Không ai nghe thấy tiếng ông chồng, kể cả những kẻ thính tai nhất. Họ cũng không thấy bếp đỏ lửa nên đoán rằng ông Quảng đã liệu thân ăn quàng ăn quấy dọc đường vì chắc mẩm cô vợ giận dỗi không thèm nấu cơm. Nghe ngóng mãi chẳng thấy gì láng giềng cũng đành đi ngủ, lòng dạ đầy ắp những nôn nao sau hai ngày đầy sự biến.

Qua nửa đêm, trời se lạnh và tràn ngập sương mù. Từ đỉnh Lan Vu, sương trôi xuống các tầng núi thấp. Rồi từ các giải núi ấy, sương lan toả khắp các miền đồi, sương trôi xuống các khu vườn; la đà cuộc rong chơi trắng ngát trên những nương chè, nương sắn, và sau rốt, những đồng lúa. Trong màn sương trắng mịt mùng, giấc ngủ trở nên sâu thẳm. Tiếng gà gáy báo canh nghe chừng cũng rụt rè, dấp dính như ngái ngủ. Và bóng đêm vùng cận sơn thường nhử đến những giấc mơ lạ lùng. Khoảng ba giờ sáng, thằng cu Hoà ở thôn Trung tung chăn vùng dậy chạy khắp nhà, vừa chạy vừa kêu như lợn bị chọc tiết. Bố mẹ nó phải giữ chặt tay chân đứa con trai, đổ nước gừng nóng cho nó tỉnh. Mở mắt được rồi, cu Hoà khóc mếu đòi thắp đèn sáng trưng từ trong nhà ra ngoài sân, rồi ngủ ngồi trên ghế. Cứ tắt đèn, nó lại bừng mắt dậy kêu thét lên. Người nhà đành phải để đèn sáng như thế suốt đêm, khi hửng mặt trời mới dám tắt. Thằng bé ngủ cho đến tận trưa mới dậy, bấy giờ mặt trời đúng ngọ chói chang, cu Hoà kể lại giấc mơ hãi hùng của nó. Trong mơ, nó nhìn thấy một con trăn khổng lồ nhưng có vây như cá, có móng như rồng, có đuôi chẻ như đuôi rết, có lưỡi dài như lưỡi chó ngao, có mào thịt giống như mào chim vẹt. Con vật khổng lồ từ dưới vực trườn lên, nằm dài trên dãy núi Trúc. Khi nó há mồm ra ngáp, con trâu đực có thể rơi thỏm vào bên trong. Một cái miệng đỏ rực màu máu, trong khi toàn thân con vật lại đen, vằn vện những sọc dài màu xanh lục chen màu vàng ốc. Những chiếc vây của nó cứng như tạc bằng than vỉa, có hình dạng từa tựa như vây kì đà. Con vật khổng lồ trườn từ dãy núi Trúc sang các giải núi Cườm xanh, Cườm vàng. Khi bò, đuôi nó quật sang hai bên khiến cây rừng đổ rạp như phải bão. Qua mấy giải núi, con vật phóng lên đỉnh Lan Vu. Nhưng nửa chừng, nó bất thần dừng lại, rống lên đau đớn. Cái bụng khổng lồ của nó trồi sụt, phập phồng như sóng biển, có thể nhìn rõ những chuyển động của một con thú đang quẫy đạp, nhào lộn bên trong. Con vật mẹ quằn quại, vật vã, mắt lồi lên như sắp bật ra khỏi mí, mũi phả ra từng luồng hơi nóng rực, mồm khạc ra từng tràng tiếng kêu ầm ầm như tiếng sấm. Rồi qua một hồi lồng lộn vì đau đớn, bụng nó từ từ nứt toác, một kẽ nứt dài, sâu hoắm, không vết máu mà chỉ chảy ra một chất nhựa đen, đặc như mủ cây. Từ trong kẽ nứt ấy, lộ ra một cái đầu y hệt như đầu con mẹ, cùng hình dáng, cùng màu sắc, cùng cả vẻ hung dữ của đôi mắt lồi, cùng cả màu đỏ như son của chiếc mào thịt khổng lồ giống như mào vẹt. Cái đầu thứ hai lớn lên vùn vụt, tựa hồ một trái bóng được thổi, chỉ trong phút chốc nó đã lớn ngang đầu con vật mẹ và vươn ra khúc thân bóng nhẫy, với những vằn dài màu vàng đất và màu xanh. Khi đã vươn đủ chiều dài để sánh ngang tầm với con vật mẹ, chiếc đầu quái vật thứ hai này gầm một tiếng hung tợn, táp vào đầu con mẹ một cú dữ dội khiến cho con vật mẹ bị thương. Từ vết thương ấy, máu phun lên đặc như mủ cây, tím như nước mận. Con vật mẹ vươn cổ lên gầm thét, và cuộc giao tranh bắt đầu. Cu Hoà đứng ngay dưới chân núi Lan Vu, đúng khoảnh đồi ngày thường nó vẫn chơi đá cầu với lũ bạn. Hai con vật cắn xé nhau ngay trên đầu nó khiến nó sợ những chiếc vuốt khổng lồ kia chà nát khoảnh đồi mà nó chỉ nhỉnh hơn con cáo ở bên trong. Nó tháo chạy nhưng không chạy nổi. Xung quanh khu đồi bỗng nhiên mọc dựng lên những bức tường kết bằng các loại gai nhọn và dây leo. Thoạt tiên là những búi cây lúp xúp cao không quá đầu gối. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc, những búi gai nảy nở như loài tảo, vươn lên ngang đầu người lớn, cành nọ đan xen, kết nối với cành kia. Và cùng lúc, các loài dây leo bất thần từ các xó đất vươn lên ngàn ngàn chiếc vòi xanh đầy lông, cuốn chằng chịt quanh những búi gai khiến cho những bức tường xanh trở nên kín đặc, con mèo cũng không chui lọt. Cu Hoà nhìn kĩ lại, và nó chợt nhận ra khắp bốn bề, nhan nhản các loài gai độc lẫn lá han. Những thứ gai nhọn chỉ cần chích vào da là da lên mủ, còn lá han là thứ lá hễ chạm vào là người sẽ phỏng rộp lên như bị bệnh đậu mùa. Tuyệt vọng, nó la thét kêu cha gọi mẹ. Không một ai nghe thấy tiếng kêu cứu của nó. Nhưng điều kinh khủng hơn là chính lúc ấy bụng nó bắt đầu chuyển động. Nó cúi nhìn xuống, thất kinh vì thấy bụng nó cũng trồi lên trụt xuống, dập dờn như sóng cuộn, hoàn toàn giống bụng con quái vật mà nó vừa chứng kiến. Nó mường tượng rằng bụng mình sẽ nứt làm đôi, từ trong đó sẽ nhô ra một cái đầu giống hệt như đầu của nó; cũng cái cằm chẻ, cũng đôi mắt xếch, cũng cái mũi hếch, và cũng gọi tên là cu Hoà... Rồi cái thằng Hoà thứ hai kia sẽ quay lại cắn cổ nó giống như con quái vật trên núi, và cuộc giao tranh ắt phải xảy ra... Nỗi sợ hãi khiến nó hồn xiêu, phách lạc, chạy cuống chạy cuồng, tìm lối thoát. Chính trong cơn sợ hãi ấy, nó biến thành kẻ mộng du...

Thằng cu Hoà từ bữa đó không dám ngủ với các em cho dù nó là con trưởng và đã mười một tuổi. Bố mẹ nó đành cho nó ngủ chung, nằm giữa. Thêm nữa, suốt đêm, họ phải để ngọn đèn hoa-kì trong góc phòng. Láng giềng tò mò hỏi chuyện chăn gối ra sao thì cả hai người đều phải thú nhận rằng những đêm nóng máy họ phải chờ cho nó ngủ thật say, khêu to đèn cho buồng thật sáng, rồi mới khẽ khàng ôm chăn chiếu xuống nhà ngang" hoạt động cách mạng"...

Người dân quê vốn coi những giấc mơ là điềm báo trước của trời đất hoặc lời đe doạ của quỷ thần. Có giấc mơ báo điềm lành, có giấc mơ báo điềm dữ. Sau các giấc mơ dữ thường xảy ra thiên tai hay địa hoạ. Rồi chúng sinh sẽ phải khốn đốn long đong trong một thời gian dài. Không hiểu ngẫu nhiên hay các đấng thần linh cố ý răn dạy loài người mà giấc mơ mẫu tử giao tranh lại xảy ra ngay sau câu chuyện nhà ông Quảng. Thế là khắp ba thôn, dân Xóm Tiều phu nháo nhác cả ngày lẫn đêm. Có lẽ chỉ trước khi bước vào giấc ngủ là con người có thể nằm bình tĩnh vắt tay lên trán để tự mình suy ngẫm về chuyện đời, còn từ lúc mặt trời lên cho đến lúc tối mịt, dân xã chuyện trò, đấu khẩu, thậm chí cãi nhau kịch liệt xung quanh sự cố này. Trước hết là các buổi làm cỏ sắn. Từng nhóm mang theo ấm nước chè đại để uống chung. Còn đàn ông , phải có ống điếu với bịch thuốc lào; đàn bà con gái có kẹo lạc, kẹo vừng; các bà già có túi trầu têm sẵn. Tối đến, người ta lại túm năm tụm ba, nhưng bây giờ, không phải ở sân nhà ông Quảng cũng không ở sân nhà cô Vui, những người được coi là các nhân vật chính trong "tấn tuồng thế sự". Bởi vào đêm ông Quảng trở về, cô Vui cũng trở về. Hai hôm sau, đảng uỷ xã họp dưới sự chỉ đạo của bí thư huyện uỷ. Chủ tịch Quý đang ngồi trong nhà giam tỉnh, chờ xét xử vì tội:

" Lạm dụng quyền chức, bắt giam người vô tội..." .

Nhìn rõ trăm phần trăm là Quý sẽ mất tuột cả chức tước chính quyền lẫn bên đảng. Hơn nữa, anh ta sẽ bị khai trừ không bảo lưu. Như thế, đảng bộ Xóm Tiều phu phải họp cấp tốc để bầu chủ tịch và phó bí thư mới. Một khi đảng bộ đã quyết, dân chúng cứ việc theo đó mà bỏ phiếu hoặc giơ tay. Trong cuộc họp này, bí thư huyện uỷ đã tuyên bố thẳng thừng rằng bí thư chi đoàn Nguyễn thị Vui đã đóng vai trò xuất sắc trong việc bảo vệ uy tín đảng. Nhờ tinh thần nghiêm khắc của đồng chí Vui trước những hành động lạm dụng quyền lực , trấn áp công dân vô tội của chính quyền xã, mà huyện uỷ đã kịp thời can thiệp, với thời gian nhanh nhất, ngăn chặn những tổn thất đáng tiếc có thể xảy ra. Do đó, huyện uỷ đánh giá rất cao tinh thần trách nhiệm và năng lực điều hành của bí thư chi đoàn, coi như người đảng viên ưu tú nhất, người cán bộ có triển vọng nhất của xã...

Với ngần ấy lời biểu dương của con người quyền lực nhất huyện, đương nhiên cô Vui tức khắc trở thành chủ tịch xã kiêm phó bí thư, trước sự vỗ tay nhiệt liệt và sự hoan hỉ nhiệt liệt của các đảng viên rồi tiếp theo đó là toàn thể dân cư. Sau lễ nhậm chức, có một cuộc liên hoan linh đình. Hợp tác cho phép ngả thịt ba con bò vừa lành vừa què, vì lẽ từ xửa từ xưa, dân Xóm Tiều phu không coi trọng những mâm cỗ chỉ có hai con vật. Cỗ đáng kể chắc chắn ngoài gà, lợn phải có thịt bò. Vào những dịp trọng đại như thế này, chính sách tiết kiệm của nhà nước đành phải cúi mặt giả điếc, giả câm trước truyền thống sâu xa, dài rộng của đám dân thích" khoái khẩu" . Ba món được tán thưởng nhất là bò luộc chấm tương gừng, giò bò cuốn tiêu và bò quấn mỡ chài nướng. Khi hàng trăm mâm cỗ đã bày la liệt trong hội trường cũng như ngoài sân, mùi rượu bốc hơi hoà cùng mùi lợn quay, bò nướng thì bầu không khí hứng khởi, say sưa khiến mọi người quên hẳn xuất xứ cuộc liên hoan. Họ cũng không để ý rằng ông Quảng , cô Ngân và bà Tư móm vắng mặt trong suốt hai ngày hội họp lẫn nhậu nhẹt... Vào lúc chén chú chén anh, chén tôi chén bác, chẳng ai dại gì đụng chạm tới những chuyện dễ làm mếch lòng người khác và bản thân họ phải đau đầu. Nhưng tiệc vui mấy cũng có lúc tàn, huống chi đây lại là tiệc mừng cô Vui nhậm chức chứ không phải tiệc mừng thọ cha mẹ, hoặc tiệc mừng con cháu thi đỗ đại học. Người dân Xóm Tiều phu đầy đủ lý do để ngoảnh mặt lại nhìn "cô Vui chủ tịch" với con mắt hà khắc sau khi cô đã nhận đủ các thứ thủ tục bàn giao quyền lực, và nghiễm nhiên ngồi vào chiếc ghế xưa nay cậu Quý vẫn ngồi. Vả chăng vào lúc ấy, các món lợn quay, bò nướng lá sả mỡ chài cũng đã tiêu thành phân bón. Thế là, chỉ dăm bẩy ngày sau, khắp các nương sắn, đồi chè; dân chúng đem câu chuyện " Con gái già Lộn Rồng " ra chỉ trích.

Theo lược thuật, Quý đã lấy trộm được một tờ lệnh bắt gái mại dâm ở nhà ông anh họ, con cô con cậu về đằng ngoại. Anh này đang là phó phòng điều tra xét hỏi thuộc sở công an tỉnh. Đấy là tờ lệnh cũ, xếp trong đống tài liệu chờ bỏ vào kho bảo lưu. Những mớ tài liệu bảo lưu này, nếu không cần dùng cho một vụ khiếu kiện ở cấp cao hơn, hoặc một cuộc điều tra chính ngạch, sẽ bị huỷ bỏ hai mươi lăm năm sau. Người anh họ kia hoàn toàn không nghi ngờ gì cậu em chủ tịch xã nên đã để Quý ngồi chờ trong phòng mà đi mua bia và đồ nhắm về thết khách. Ăn cắp được tờ lệnh này, Quý đã dùng hoá chất tẩy xoá tên bị can cùng ngày tháng cũ, điền tên cô Ngân và niên hạn mới cho phù hợp. Như thế, trưởng công an xã không hồ nghi gì khi đọc tờ lệnh trên, với con dấu sở công an tỉnh và chữ kí của cán bộ phòng điều tra xét hỏi. Thêm nữa, vốn là cánh hẩu cùng nhau làm việc từ nhiều năm nay, anh ta sẵn sàng thực hiện một cách hăng hái tất thảy những gì Quý yêu cầu. Do đó mà có cả một tiểu đội du kích ập đến nhà ông Quảng, bắt kẻ " chuyên lừa đảo đàn ông, phá hoại thuần phong mỹ tục" tên gọi thị Ngân. Vào chính buổi trưa xảy ra sự việc này, cô Vui tức khắc cưỡi xe đạp xuống tỉnh báo tin cho ông Quảng. Phần tiếp sau đấy, là những gì đã xảy ra mồn một trước mắt tất thảy mọi người... Không cần thêm lời chú giải.

Dân quê vốn ghét những kẻ mưu cao kế hiểm, cho dù chính họ cũng luôn luôn dùng mẹo vặt để kiếm chác những mối lợi cho mình. Đối với họ, kẻ cao mưu luôn luôn là một sức mạnh đen tối có thể tàn phá không chỉ một cá nhân mà là cả một gia đình, đôi khi cả một làng, một xã... Kẻ mưu cao kế hiểm cũng giống như phù thuỷ thời trước, hạng quái nhân dùng bùa phép khiến người ta phải mê mụ đi mà yêu, mà ghét, mà thù, mà làm tất thảy những hành vi ngu ngốc hoặc điên rồ phi nhân tính. Nếu kẻ cao mưu lại là một người đàn bà thì sự kinh sợ và lòng thù ghét sẽ tăng lên theo cấp số nhân. Bởi người đàn bà sinh ra với hai vú, hai mông. Hai vú là để nuôi con, hai mông là để làm sung sướng đức ông chồng. Đàn bà không nên làm điều gì trái với những thiên chức mà đất trời đã giao phó cho họ. Một người đàn bà nhảy lên cái ghế của các ông chánh tổng, lý trưởng cũ đã là sự nghịch mắt. Nhưng cái con triện này lại nắm được sau khi dính dấp vào một vụ mưu phản, một cuộc đánh tráo cơ hội là thứ quyền lực chịu nhiều sự phỉ báng nhất, nói theo ngôn ngữ cổ:

" Là thứ danh mà chán vạn người nhổ bọt lên trên".

Như thế, nếu cô Vui đủ thông minh, hẳn cô cũng có thể đoán được người ta bình phẩm ra sao sau lưng mình. Nhưng may thay, mọi trí thông minh đều bị giới hạn, và cô con gái ông Đô đang ngây ngất vì hạnh phúc của kẻ cầm quyền, còn chú tâm lo xây tổ, kết bè kết cánh, củng cố chiếc ghế chủ tịch xã... Công việc ấy khiến cô không còn đủ thời gian cũng như sự bận tâm để tìm hiểu những phẩm bình của dân chúng, đám người đang ra sức đào bới những bí ẩn trong con tim cô như những nhà lập pháp đào bới một thây ma để làm rõ một cái chết mờ ám. Cuộc điều tra có tính cách "pháp lý nhân dân " cũng giống như tất thảy những sự kiện có tính "toàn dân" khác, phổ cập một cách triệt để. Già trẻ, lớn bé, gái trai đều tham dự, mặc dầu những người chính thức nhảy vào cuộc đối thoại chỉ thuần kẻ mày râu:

- Các ông có thấy chúng mình già đời mà ngu dại hay không ?...Cả lũ cả đàn xóm trên xóm dưới đến kéo nhà nó nghe chuyện vợ chồng ông Quảng như đám trẻ đi xem đèn kéo quân mà không biết vì sao nó lại nhiệt tình chào đón đến như vậy.

- Thì ai biết... Tưởng nó mới nổi lên giàu nên thích làm sang, thích sánh vai Mạnh Thường Quân, ganh đua với ông Quảng.

- Xì... xì... Con ấy làm sao mà rộng lòng, hởi dạ được. Bữa trước con cháu nội của tôi bị sốt, tưa lưỡi. Nhà hết mật chạy sang xin, nó cho được đúng hai thìa.

- Ông nói điêu... Ai mà dám giơ tay cho xóm giềng hai thìa mật ?

- Cái chén hạt mít đựng mật hãy còn ở trên tủ nhà tôi, chốc nữa ông sang mà xem .

- Có thế thật. Cô ấy bỗng dưng trở nên hào phóng cũng vì muốn lấy lòng chòm xóm, nhưng cũng còn vì muốn mượn dư luận triệt hạ kẻ địch tình. Chẳng phải tự nhiên công cốc bỏ của bỏ tiền ra, thuê xe về tận làng Khoai điều tra tình cảnh một con đàn bà khác. Nếu là kẻ dưng không ai điên rồ làm như thế.

- Vậy mà hồi đó cứ nghĩ đơn giản là cô ta nghe lệnh cậu Quý .

- Lệnh chủ tịch chẳng to được đến thế nếu không có sự thúc hối tự tâm can.

- Đúng thật, giờ nhớ lại mới thấy mình có mắt như mù. Chính tôi đứng sát cô ta ngày đám tang bà Quảng. Chính tôi thấy cô ta lên thắp hương ba lượt, vái những ba lần.

- Vái ba lần để vong hồn bà ấy ưng thuận cho bước lên giường hợp hôn với ông chồng goá bụa. Còn xóm giềng lẫn người trong họ, ai cũng chỉ một lượt vái là phải phép.

- Rõ rành rành mà chẳng ai để ý, cô ta kín võ thật.

- Cũng chẳng kín võ, nhưng vì chúng ta bị ma che mắt nên chẳng nhìn ra. Tôi đoán chừng là ông Đô phù trợ để cô gái yêu lấy được tấm chồng, hoạ may kiếm được tí cháu. Ngoại tam tuần rồi còn đâu thời gian mà ngóng đợi ?

- Tôi không tin chuyện ma che mắt, nhưng tôi cho rằng chúng ta là những kẻ vô tâm. Còn cô gái già này mới chính là con người mưu lược. Ngẫm đi nghĩ lại mới thấy cô ta chọn ông Quảng mà tấn công là hoàn toàn chính xác. Trong xã này, ông ấy là người thạo đời nhất, ăn cơm thiên hạ bao nhiêu năm trường, đã giàu lại to gan. Phi ông ấy ra, ai dám mó đến cô ta ?

- Đích thị như vậy. Nhưng khéo tính cũng chẳng lại với trời. Trời không cho thì trăm mưu nghìn kế cũng bằng không. Thế gian có câu " may hơn khôn" là vì thế.

- Miếng ăn ngỡ đến miệng lại bị rơi nên mới theo thằng Quý trả thù. Cô ta tưởng chắc chắn sẽ bước chân lên cái giường gỗ lim của bà Quảng. Chẳng gì cũng có cơ ngơi toà ngang toà dọc, anh tám lạng, ả nửa cân, nào kém cạnh nhau? Không ngờ có con đàn bà ở tít tắp mù khơi nó bay vèo đến như con chim yến, đậu đúng cành soan của người trong mộng. Thế là tan cuộc.

- Đoạn này chính cô ta vụng tính. Thằng đàn ông đáng mặt quân tử không thèm ngó đến của nả nhà vợ. Chỉ bọn đào mỏ mới nghĩ đến túi tiền. " Trai anh hùng, gái thuyền quyên" bậc chính nhân chuộng dung nhan, ngôn hạnh .

- Chí phải, ông Quảng thiếu gì tiền mà phải tìm một con đàn bà giàu có? Ông ta bê một đứa xinh đẹp như tiên, tươi trẻ nõn nà, da thịt thơm phưng phức. Tuổi sáu mươi được như thế chết cũng không còn chi hối tiếc.

- Kết luận lại là cô gái già vụng tính.

- Đừng vội kết luận. Dẫu vụng tính nhưng nó giỏi xoay . Cái đầu nó lắm mưu hơn toàn thể những cái đầu chứa rặt bã đậu của lũ chúng ta cộng lại. Tôi đố các ông xoay chuyển tình thế giỏi như nó. Đang từ phe cậu Quý, nó nhảy một phát thành đồng minh của ông Quảng. Người ta bảo "đục nước béo cò" chính là thế này đây.

- Phải công nhận là con đàn bà này khiếp đảm. Ông Quảng kín võ như bưng vậy mà nó biết được thế ông ấy mạnh như chẻ tre, trùm từ huyện đến tỉnh. Ắt hẳn nó phải có tay trong, họ hàng thân thiết ngồi ở đám cầm quyền. Một con đàn bà đang từ Hán chạy sang Hồ, bỏ Tần sang Sở nhanh như lật bàn tay thế cũng đáng gờm mặt.

- Không tóm được củ khoai của ông Quảng thì lại nắm được con triện uỷ ban xã, giờ nó là con đàn bà quyền hành nhất hạng, đứng trên đầu hơn hai ngàn dân Xóm Tiều phu này. Thế chẳng phải là nó thắng một ván to hay sao ?

- Thắng ván to thật. Chuyện này không ai dám chối cãi. Nhưng tôi xin hỏi các ông, cái đầu nó lắm mưu thế thì con ba ba của nó có sỏi bên trong không nhỉ ?

- Có... Chắc chắn là có. Hôm nào nó đi qua các ông cứ thử lắng tai nghe xem, hai hàng sỏi đóng hai bên cái hẽm của nó cọ vào nhau leng keng, lục cục.

- Ông chết nhá. Tối nay tôi về bảo bà ấy là ông chuyên nghiêng đầu giỏng tai nghe con ba ba của cái Vui gióng chuông. Bà ấy véo đứt tai ông là cầm chắc.

- Ôi dào, mách vợ tôi chuyện ấy cũng bằng thừa. Nó biết rằng chỉ nhìn thấy con gái già này là bộ sậu của tôi đã héo rũ lại, kim đồng hồ chỉ số sáu ngay lập tức.

- Cũng tội nghiệp cho cô em, quyền cao chức trọng, nhà to sân lớn thật nhưng con ba ba để mốc thếch, khéo bây giờ gõ kêu công cốc như mõ chùa.

- Láo, sao ông dám ví von thế hả ? Bậy bạ , các cụ vả cho sưng mõm lên bây giờ.

- Ôi xin các ngài đại xá, chúng con vui miệng lỡ mồm...

- Lặng im. Tôi có một câu đố dành cho các ông, kể cả các bà các cô nữa, nếu muốn tham dự. Đố rằng từ giờ trở đi vườn nhà cô chủ tịch Vui sẽ trồng loại cây nào ?

- Sao ông hỏi oái oăm như thế ?...Ai ngồi trong óc nó mà biết được ?

- Thế mà tôi biết đấy, các ông đánh cược cái gì tôi nói cho mà nghe.

- Đồng ý, một bữa rượu với cá rô rán.

- Bủn xỉn thế, không thèm.

- Thêm bữa rượu thứ hai với gà mái tơ hấp, chấm muối lá chanh.

- Chưa đủ.

- Bữa thứ ba với bún lòng mắm tôm, mùi tàu, húng quế.

- Tôi chấp nhận. Giờ, các ông giỏng tai lên mà nghe: Từ nay về sau cô chủ tịch xã của chúng ta sẽ nhổ sạch các loài cây hiện có trong vườn mà chỉ trồng toàn chuối ngốc. Loài chuối ngốc này phải lấy giống tận dưới tỉnh Hưng-yên, còn có tên gọi là chuối tăng sản, hoặc chuối triển lãm, mỗi quả nặng từ nửa cân tới bảy lạng tây, to hơn cái chày giã cua của các bà nội trợ...

Các bà các cô lập tức rú lên như bị rết cắn, hoặc bị dội nước sôi:

- Phải gió cái nhà ông này...

- Đồ đàn ông đểu cáng... Đồ chết giẫm...

- Đồ quỷ, đồ trời đánh thánh vật...

Rồi họ cười lăn cười lộn, cười ngả cười nghiêng, cười rú lên từng hồi như điên, cười đến bật cơn ho sằng sặc như mắc chứng ho gà, cười đến chảy nước mắt nước mũi... Như thế, đoạn kết của tất thảy những cuộc bình phẩm bao giờ cũng vẫn là những câu chuyện tưởng tượng lạ lùng và tục tĩu, nơi trí tưởng tượng của người nông dân được xài hết công xuất để dồn trút những ẩn ức trong tâm hồn họ và để bắn loạt đạn hành hình vào kẻ nào đó bị buộc vào cây cọc trước một pháp đình xưa cổ và miên viễn .

Nhưng những câu chuyện vừa nghiêm chỉnh vừa cợt nhả về người đàn bà quyền lực cũng chính là một lối trả thù. Lối trả thù vô thức, xưa cũ như trái đất. Khi một cơn chấn động tinh thần tập thể xảy ra, người ta phải tìm phương thức giải cứu để có thể tìm lại sự cân bằng, để củng cố niềm tin vào bản thể, và sau rốt, để biện minh cho cuộc sống tương lai. Cách tiện lợi nhất là tìm vật hiến dâng một vị thần vô hình vô ảnh, một đấng linh thiêng tối cao đầy quyền năng đủ bùa phép hoá giải mọi tai ương. Người xưa từng bắt những cô gái đẹp nhất vùng ném xuống vụng biển để làm vừa lòng Hải long vương với những tên gọi Thanh long vương, Bạch long vương hay Hắc long vương tuỳ theo vùng biển các vị thần trấn ải. Người Xóm Tiều phu giờ đây không thể bắt con cháu họ ném xuống vực sâu để tế sơn thần nên họ phải tìm cách mang lên dàn hoả thiêu của dư luận một kẻ khả nghi nhất về tư cách. Trong trường hợp này, không có vật thí mạng nào thích đáng hơn cô chủ tịch vừa nhậm chức Nguyễn thị Vui. Giấc mơ của đứa bé thôn Trung thổi một cơn bão khắp vùng, nhưng trước hết là dân trong xã. Một con quái vật khổng lồ giao tranh cùng đứa con vừa chui ra từ lòng nó. Phải chăng đó là hình ảnh biểu trưng cho nỗi bất hạnh mà người ta sợ hãi nhất trên đời: sự vô phúc, sự vô đức, sự bất nhân.

Bất cứ một gia đình nào, dẫu sang hay hèn, giầu hay nghèo cũng đều xem mối quan hệ giữa các thế hệ là nền tảng vững chắc nhất của một dòng tộc. Không có tiền thì không sống được. Cảnh bần hàn là một thứ địa ngục dưới ánh mặt trời, không ngạ quỷ cũng chẳng có lò thiêu nhưng nung nấu con người trong đau khổ. Tuy nhiên, nếu rương hom đầy tiền bạc, mà vợ chồng đánh lộn, anh em vác dao chém nhau để tranh giành phần hơn phần kém thì sự giàu sang ấy cũng được coi là một thứ địa ngục thứ hai. Một địa ngục không kém phần kinh hãi. Tình mẫu tử cũng như tình phụ tử xưa nay vốn được coi như thứ tình cảm thiêng liêng nhất trong cõi người. Từ thuở đứa bé lọt lòng, người ta đã hát ru:

" Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra."

Câu hát bên nôi ấy sẽ còn lặp đi lặp lại như một điệp khúc bất tận qua suốt tuổi thơ sang đến tuổi trưởng thành. Rồi khi đứa bé ấy đã trở thành một chàng trai hay một cô gái, trong hôn lễ, ngày hạnh phúc nhất của cuộc đời, họ phải quỳ lậy những người đã sinh thành và nuôi dưỡng họ ngay trước bàn thờ gia tiên. Nghi thức ấy biểu lộ sự tôn kính và lòng biết ơn. Nghi thức ấy cũng là lời cam kết của tình hiếu đễ. Thời cuộc đổi thay, các đám cưới dưới chính quyền cách mạng không trầu cau, cũng chẳng còn pháo hồng, khăn lụa. Trai gái vừa liếc mắt đưa tình tối hôm trước, sáng hôm sau đã báo cáo đoàn thể, đảng, đoàn, hay ban phụ nữ xã. Cha mẹ chưa kịp cất nhời, họ đã kéo nhau ra uỷ ban cộp con dấu vào tờ khai giá thú. Mực vừa ráo, tức khắc các đoàn thể đứng lên tuyên bố, diễn ngôn, khuyên nhủ các cặp tân hôn phải đoàn kết, chăm chỉ lao động, hoàn thành mọi nhiệm vụ của nhà nước và gia đình. Sau đó, là kẹo lạc nước chè xanh thay cho cỗ lớn, cỗ nhỏ; những tràng vỗ tay thay cho pháo hồng, khăn lụa. Người ta phải cúi đầu khuất phục quyền lực thế tục. Nhưng những cuộc phục thù rình nép trong bóng tối của lặng câm. Và vào thời điểm cho phép, chúng ắt xảy ra.

Như thế, giấc mơ của đứa bé thôn Trung dội vào tâm hồn những người dân cơn bão của sợ hãi và phẫn nộ. Ngoại trừ những kẻ mất trí, chẳng ai muốn có một đứa con quay cổ lại đâm dao găm vào lưng mình. Người làm cha làm mẹ thường hy sinh không tiếc thân cho các con được ăn, được học, được trở thành một "ông nọ bà kia" hơn hẳn chính họ. Người ta vẫn được dạy dỗ từ bao đời: chỉ lợn mẹ mới táp lợn con, chỉ chó mẹ mới tranh ăn với chó con, loài người không thể hành xử như vậy. Khi đã hy sinh như thế, ắt hẳn họ tự cho phép mình quyền được đòi hỏi nơi những đứa con lòng hiếu đễ. Lô-gic thường hằng của đạo lý lại luôn luôn bị dập vùi bởi một hiện thực phũ phàng. Giấc mơ tình nghĩa vốn dĩ mênh mông như biển khơi, nhưng hiện thực của lòng nhân ái, của sự quên mình chỉ là những dòng sông mảnh mai, những con kênh hẹp. Tự muôn đời, cuộc sống trôi đi như dòng nước, giữa hai bờ của hy vọng và thất vọng, của lòng tin với sự mất lòng tin, yêu thương và oán hận... Giống như trái đất quay giữa mặt trời và mặt trăng, một sự luân chuyển không ngưng nghỉ, một đổi dời bất tận, một xoay vần miên viễn cho đến ngày vũ trụ trở thành đám tro của hỗn mang, trong cuộc trở về cuối cùng. Bởi quy luật của sự luân chuyển không mệt mỏi này, người ta phải cứu vớt niềm tin của chính mình vào những thời khắc hiểm nguy nhất. Không còn niềm tin thì chẳng còn cuộc sống, cho dù là một niềm tin rồ dại. Người dân quê cần phải bảo vệ mái nhà của mình, họ cần tin rằng con cái sẽ biết ơn sự hy sinh của họ, rằng chúng sẽ trở thành những đứa con hiếu đễ để xứng đáng với tất thảy những lao khó, nhọc nhằn ,những hy sinh, tận tuỵ trong ngần ấy tháng năm. Họ cần được bảo đảm rằng một mai đây, khi họ nằm trong quan tài, những đứa con đi sau linh cữu sẽ nhỏ những giọt lệ chân thành vì tiếc thương chứ không phải vì chúng cần diễn màn kịch để che mắt xóm giềng, hay để trả thù lao cho nhà cửa, ruộng vườn, tiền bạc mà họ đã để lại cho chúng. Họ cần được bù đắp lại một cách công bằng, bởi tình yêu cần được đắp đổi bằng tình yêu. Tấn tuồng thế sự diễn ra trong gia đình ông Quảng, thoạt kì thuỷ tưởng như một màn chèo tiêu khiển, dần dà đụng chạm đến những bi kịch vụng lén, kích động những cơn khắc khoải, những nỗi lo âu kinh niên nung nấu sau cánh cửa nhiều gia đình. Đến khi giấc mơ " mẫu tử giao tranh" của thằng cu Hoà thôn Trung xuất hiện thì những cơn day dứt thầm kín trong tâm hồn con người bùng khởi như giông tố chà xát khắp vùng, và người ta đổi tên giấc mơ " mẫu tử giao tranh" thành " phụ tử huyết chiến" để cho gần với hiện thực.

"Phụ tử huyết chiến" bởi có những bí ẩn không thể lý giải trong câu chuyện lạ lùng này. Chính trưởng công an xã , sau khi bị huyện hỏi cung vì đã "thi hành mệnh lệnh một cách cẩu thả, máy móc, không tỉnh táo giám sát kĩ lưỡng " đã kể lại rằng khi tới nhà ông Quảng đọc lệnh, yêu cầu cô Ngân chứng minh rằng quan hệ của cô với ông Quảng là hợp pháp, người vợ trẻ của ông đã la lên:

- Chúng tôi có cưới xin hợp pháp. Tôi sẽ đưa tờ khai giá thú cho các ông xem...

Giọng cô quả quyết. Rồi cô tất tả vào buồng, tức khắc mở khoá chiếc tủ lim ba gian đồ sộ để lục tìm giấy tờ. Vẻ mặt lẫn hành vi của cô khiến cho trưởng công an xã chột dạ, bởi anh ta hiểu rằng nếu quả thực cuộc hôn nhân của họ là hợp pháp thì tờ lệnh truy nã kẻ mại dâm là giả mạo, và trong trường hợp ấy, anh ta sẽ bị kết tội a tòng giả mạo giấy tờ, đàn áp công dân cùng chủ tịch Quý. Tim anh ta đã bắt đầu nhẩy loạn nhịp. Nhưng may mắn sao, càng lục soát, cô Ngân càng tuyệt vọng, và sau rốt người đàn bà hoảng hốt gào lên:

- Ai đã ăn cắp tờ khai giá thú của tôi? Tôi thề với các anh rằng chúng tôi đã đăng kí đàng hoàng ở làng Khoai, chính cậu tôi, chủ tịch xã đứng lên làm thủ tục.

Nhưng vào lúc ấy, mọi tiếng kêu gào, khóc lóc của cô đều vô nghĩa vì trưởng công an xã cũng như đội du kích đều tin chắc mệnh lệnh họ thi hành là chuẩn xác, và nếu đã là một mệnh lệnh chuẩn xác, họ sẽ thẳng tay trừng trị một " con đàn bà vô đạo đức, phá hoại thuần phong mĩ tục của xã hội."

Điều kì lạ là sau khi huyện thông báo lên công an tỉnh, công an tỉnh phái người về giải quyết tức khắc, lúc cô Ngân được giải phóng khỏi căn phòng tạm giam hôi rích mùi nước đái chuột và đầy dĩn, muỗi ; cũng chính là lúc ông Quảng mang tờ giấy khai giá thú trả lại cho cô vợ trẻ. Rõ ràng là chính ông đã lấy nó chứ chẳng phải một tên trộm vô danh nào đấy. Điều bí ẩn này chắc chắn không một ai dám hỏi, nhưng nó là chủ đề cho tất thảy những cuộc tranh cãi của dân trong vùng. Người thì cho rằng ông Quảng đoán trước sự việc nên đã lừa cậu con trai vào bẫy. Người lại cho rằng ông Quảng mang tờ khai giá thú theo vì e rằng nó sẽ bị đánh cắp và thủ tiêu bởi chính cậu con trai. Chiếc tủ lim ba buồng đồ sộ vốn là vật gia bảo đã qua nhiều đời. Là con trai trưởng nên Quý được quyền giữ một chiếc chìa khoá. Sự cẩn trọng của người cha đã vô tình trùng khít với việc cậu con trai cay cú muốn hạ nhục người mẹ kế chỉ đáng tuổi con gái mình. Có người lại cho rằng mọi sự xảy ra dưới bàn tay của quỷ hoặc thần, rằng không một đứa con tỉnh táo nào có thể hành xử như Quý, cũng chẳng có một người cha bình thường nào nỡ lòng ám hại con mình. Rằng sự việc này đích thị người xưa vẫn gọi là: Ma ám !... Rằng gia đình này có những dây tơ mối nhợ với thế giới của ma quỷ nên luôn luôn xảy ra những sự việc bất thường. Người mẹ bị ma đói nhập hồn, giờ đứa con trai lại bị quỷ mù ám quẻ. Những con người này đều hành động như rồ như dại dưới sự điều khiển của một gã phù thuỷ hiểm ác, hoặc một con quỷ vô hình. Họ chỉ còn là những cái xác biết di động, hoặc những con rối gỗ dưới những sợi dây điều khiển thế giới ma...

Thôi thì đủ loại giả thuyết, đủ mọi chiều phân tích. Cuộc khẩu chiến kéo dài liên miên ngày nọ qua tháng kia. Nhưng một điều tất cả mọi người đều cảm nhận, ấy là nỗi sợ hãi trước một hiện thực quá tàn bạo, một hiện thực khiến cho mọi kẻ làm cha làm mẹ đều chấn động đến tận nơi sâu xa nhất trong cõi lòng. Họ cố dò tìm sự thật .

Một ngày, người em trai ông Quảng bạo gan hỏi anh:

- Thằng Quý bị tù bao lâu theo xét xử ?

- Bốn năm sáu tháng.

- Thế là bây giờ con Vui ngồi chồm chỗm trên ghế của nó.

- Đấy là chuyện của kẻ cầm quyền, chẳng phải việc của chúng ta.

- Nhưng dù sao nó cũng là con anh, và là cháu ruột của em.

- Ai chẳng biết chuyện đó.

- Sao anh không tìm cách nào đấy làm giảm nhẹ sự tình ?

- Chú muốn nói gì ?

- Em muốn nói chẳng lẽ tầm tay dài như anh lại không giữ được nó trên ghế chủ tịch xã ?

- Chú tiếc hả ? Nhưng tôi là cha đẻ của nó, nó còn hà hiếp tôi đến thế, huống chi người dưng?

Ông em không dám nói gì thêm.

Sau đó nhiều ngày, ông ta mới đến nhà Quý, trách mắng đứa cháu dâu:

- Thằng chồng mày ngu hơn chó, sướng chẳng biết đường sướng. Từ khi chúng mày dựng vợ gả chồng, nhà dọc nhà ngang đều do ông bố lo liệu. Chúng mày sinh con đẻ cái, từ đồ ăn thức uống đến quần áo giầy dép lũ trẻ, cũng ông ấy sắm sanh. Cho đến cái ghế chủ tịch, chẳng có ông ấy, đố thằng chồng mày ghé đít ngồi vào được. Có ông ấy, không những cả đàn cả lũ chúng mày mà họ hàng cũng được nương nhờ cây cao bóng cả. Mẹ chồng mày chết rồi, ông ấy muốn lấy ai là quyền ông ấy, phận sự gì chúng mày phá thối ? Đúng là lũ đầu lợn. Bây giờ thằng chồng ngồi tù, con vợ ở nhà chỉ lo hai bữa cơm ăn đã đủ hết hơi, cổ dài như cổ ngỗng. Chúng mày đã thấy sướng hay chưa ?

Đấy là sự thức tỉnh của lý trí cũng như đạo đức. Phải chăng đó chính là bài giảng luân lý cổ truyền ? Nhưng trong cuộc thi điền kinh, đạo đức bao giờ cũng là kẻ chậm chân. Đạo đức luôn luôn là vận động viên cuối cùng về đích.

***

Chủ tịch Quý bị kết án tù ngồi bốn năm sáu tháng.

Mọi người đều biết rõ sự tình. Nhưng sau một năm, người ta đã thấy anh ta trở về. Những ai không lên nương, xuống ruộng mà ở lại làm việc nhà vào buổi sáng hôm ấy, sẽ nghe tiếng gõ móng ròn rã của con ngựa nhà ông Quảng trên đường thôn. Đó là nhịp chân của một con ngựa nòi, lông nâu hồng óng mượt như nhung, bờm dài đẹp như bờm ngựa trong tranh Tàu cổ. Tiếng gõ móng của nó hoà nhịp với tiếng lục lạc nơi cổ, là khúc nhạc quen thuộc đối với dân Xóm Tiều phu, bởi nó gợi lên hơi hướng của cuộc sống náo nhiệt nơi đô thành. Cứ nghe tiếng lục lạc reo là người ta ngóng ra cổng, hoặc qua hàng rào để ngắm con ngựa, và cất tiếng chào chủ nhân. Sớm hôm ấy, họ đều thấy ông Quảng ngồi phía trước, vẻ mặt tư lự, tay lơ đãng ra roi. Phía sau là vợ chồng Quý. Cả hai quắt queo như hai túm giẻ, im lặng như hai mô đất, quay mặt vào nhau. Vẻ im lặng lạ lùng ấy khiến mọi người không dám cất tiếng chào như thường lệ. Họ giả tảng như không nhìn thấy ai, chẳng nghe thấy gì. Nhưng vào buổi tối hôm ấy, người nọ thì thầm với người kia, xóm này loan tin sang xóm khác. Chẳng ai còn vẻ háo hức hồ hởi của những kẻ rỗi việc, tò mò thóc mách chuyện ngoài đường. Cũng chẳng ai còn vẻ nhởn nhơ của kẻ đi xem hát chèo, hay dửng dưng như đứng ngoài lề mọi chuyện. Dân Xóm Tiều phu nhìn vào mắt nhau, với vẻ đắn đo lạ lùng của những người tuy già đầu nhưng chưa đủ khôn lớn, tóc đã muối tiêu mới truy tìm hình ảnh đích thực của bản thân mình:

- Ông bố đã ra tay kéo cậu con trai khỏi cánh cửa ngục tù. Thôi, như thế cũng còn may.

- Cơ sự này chắc chắn cậu ấy sẽ phải mở to mắt mà nhìn ra ngoài để hiểu sự đời, nhìn vào trong tâm để hiểu bản thân. Từ nay về sau ắt biết đường hối cải.

- Nghe đâu cậu ta đã phải quỳ lạy ông Quảng ngay cửa nhà giam tỉnh, vào chính lúc công an đọc lệnh tha trước hạn tù.

Người này nói, người kia lặng im, hoặc nhìn lên trời , hoặc nhìn ra những bờ dậu, hàng cây, với con mắt nửa chăm chú nửa ngơ ngác. Rồi sau những im lặng đầy nghi vấn, người ta thở dài như trút được gánh nặng:

- Sự đời ngàn năm không thay đổi: máu chảy ruột mềm, hổ cũng chẳng nỡ ăn thịt con...

Có lẽ, đấy cũng chính là lời tự an ủi, một thứ thành trì tâm linh che chắn, phòng ngừa trước những cơn bão có nguy cơ đổ bộ từ một đại dương xa lạ và bất tường vào đất liền, nghiền nát những con tim yếu mềm của họ.

Sự trở về của Quý diễn ra trong im lặng. Anh ta ở nhà một tuần, chẳng bước chân khỏi ngõ. Sang tuần sau, vào một sớm, Quý cùng hai cô con gái vác sọt lên nương dỡ sắn. Đang từ con người quyền lực nhất xã, đi tới đâu cũng nghe người ta cất lời chào trước khi kịp mở mồm ; giờ trở thành kẻ thường dân đã là một thử thách cam go, huống chi lại là một thằng tù được bàn tay của chính cha mình giải cứu. Xóm giềng chắc mẩm mọi sự phải diễn ra như vậy. Do đó, bởi một thứ trắc ẩn xưa cũ đã tồn tại hàng ngàn năm trong các cộng đồng, dân Xóm Tiều phu nhất loạt giả tảng như không biết chuyện gì đã xảy ra, như Quý vừa mới đi xa trở về. Những cuộc trò chuyện diễn ra một cách an lành như cây cỏ:

- A !... hôm nay bố con nhà cậu cũng đi dỡ sắn ?

- Phải.

- Nương sắn bên ấy tốt gấp hai lần nương sắn nhà tôi.

- Cũng tàm tạm, ơn trời.

- Cô Đào cô Mận chăm làm cỏ , sắn năm nay hẳn tốt bột. Đến tết tha hồ tráng miến.

- Vâng. Bọn trẻ nhà tôi thích ăn miến. Mẹ chúng nó tuy vụng dại đủ đường nhưng cũng biết vài mánh trong nghề này.

- Năm nay cậu có tính gây lại đàn ong hay không ?

- Tôi chưa tính. Còn chờ xem sao.

- Nhà tôi cũng vậy. Năm ngoái mất mùa phấn hoa, đàn ong vơi quá nửa.

- Làm nông nghiệp như đánh bạc, phải chấp nhận thiên tai.

- Có câu ca này:

" Mất mùa thì tại thiên tai
Được mùa bởi tại thiên tài đảng ta "

Nếu cậu còn là chủ tịch cậy răng tôi cũng chẳng dám nói. Nhưng bây giờ cậu cũng là phó thường dân như chúng tôi. Mọi sự chẳng còn phải giữ gìn.

- Thế a ?

- Bây giờ thì mọi người đều bạo mồm, bạo miệng nói đủ chuyện đời với cậu.

- Thế a ?

- Phải.

- Vậy mà tới giờ tôi mới biết. Câu ấy ca ấy hay thật. Lão nào nghĩ ra đúng là bậc kì tài.

- Cậu nói thật hay chơi đấy ?

- Sao anh hỏi thế ?

- Ồ, tại vì bao nhiêu năm nay ngồi trên ghế chủ tịch, cậu chỉ nghe huấn thị đảng với chính quyền. Những câu hát bậy bạ chẳng lọt tai các vị cầm cân nảy mực.

- Có thế thật. Nhưng vào nhà tù tôi mới biết thật sự cuộc đời. Trong ấy ối thằng thông minh sáng láng gấp vạn lần lũ cấp huyện trên đầu tôi.

- Thật thế a ?

- Sao không thật ?

- Ấy là tôi mớm nhời như vậy.

Thế là từ hôm ấy "chuyện đi tù" của Quý bỗng dưng nhờn như chuyện đùa. Chẳng ai còn mặc cảm, chẳng ai còn nương dè vì sợ đụng chạm đến nỗi đau của người khác. Quý kể khơi khơi chuyện những "bạn tù" với vẻ nhởn nhơ, hãnh diện như gặp gỡ họ là một đặc ân và chính họ là những người thầy đầu tiên dạy cho anh ta bài học vĩ đại về cuộc sống. Dân làng đều thấy rằng Quý đã hoàn toàn trở thành con người khác. Điều ấy, anh ta không che giấu. Chẳng phải một lần mà nhiều lần Quý nói oang oang cho họ nghe:

- Ồ, trước đây cứ tưởng ông phỗng là to, giờ tôi mới biết hòn đá rửa chân ở cầu ao còn to vạn lần hơn ông phỗng.

- Cậu nói bóng nói gió như thế, hoạ chăng có dân đầy bụng chữ mới hiểu nổi; cánh dân cầy chúng tôi mít đặc.

- Vậy tôi giảng cho các ông nghe: Trước đây cả làng cả xóm tranh nhau thi đua, phấn đấu. Người lớn thi đua lao động, tăng sản lượng, vượt chỉ tiêu; trẻ con thi đua nhặt phân trâu, lượm lúa rơi lúa vãi; ở trường thì thi đua học hành, được đứng lên bảng danh dự, được nhận phần thưởng và gài bông hoa vải đỏ lên ngực là tột bậc hạnh phúc. Bao nhiêu năm sống như thế, giờ tôi mới nhận ra đó là những chuyện hão huyền. Đời sống thật sự của chúng ta chỉ quy tụ vào ba cái lỗ, một cái lỗ miệng bên trên, còn hai cái lỗ khác ở trong đũng quần. Chỉ quan tâm đến ba cái lỗ ấy là đầy đủ một kiếp sống.

- Nhưng còn...

- Chả còn gì hết. Hoặc nếu còn, cũng chỉ là sự phỉnh phờ. Rặt những chuyện phỉnh phờ. Tôi cắt nghĩa cho các ông nghe: Tất thảy chúng ta đều bị triệt sản. Đàn ông thì thắt túi tinh trùng, hoặc dùng bao phòng tránh thai. Đàn bà phải đặt vòng, hết vòng con giun đến vòng tròn như cái nắp. Da dẻ xanh như đít nhái, mặt mày tái mét như trúng gió độc cũng cứ phải tiếp tục đeo vòng cho hoàn thành kế hoạch sinh sản để được nhận cờ thi đua cấp huyện, cấp tỉnh. Trong khi đó những kẻ ra lệnh cho chúng ta triệt sản có chịu thi hành chính mệnh lệnh của họ đâu. Vào trong tù tôi mới biết được sự thật ấy. Vào tù tôi mới biết trong khi dân đô thị ăn sắn ăn khoai, khẩu phần thịt mỗi tháng từ một lạng đến hai lạng rưỡi thì các quan lớn có sổ Tôn Đản tha hồ tọng vào mồm những gì họ thích. Thứ bảy, chủ nhật, toàn dân đi lao động xã hội chủ nghĩa thì vợ con các quan lớn nhảy đầm hoặc vẫy điếm đực vào buồng phục vụ. Tết nào nhà nước cũng yêu cầu dân chúng tiết kiệm trong khi các quan thừa thãi sâm nhung, quế phụ, bếp nhà họ đầy sơn hào,hải vị, hết cháo yến lại đến ba vị đại bổ hầm với sâm cầm. Như thế, không là sự phỉnh phờ thì các ông gọi là gì ?

- Ồ... quả tình chúng tôi không biết.

- Vì thế, tôi mới hiểu rằng bọn người đứng trên đầu trên cổ chúng ta chỉ cốt làm sướng ba cái lỗ của họ. Vậy dại gì chúng ta không làm trơn ba cái lỗ của chúng ta ?

Đến đây thì xóm giềng đều im bặt, phần bởi ngượng nghịu, phần bởi những điều Quý vừa nói quá mới lạ họ chưa biết phản ứng ra sao. Có người cho rằng anh ta nói cà trớn như vậy cốt gây sự chú ý đến "những bài học trong tù" mà quên đi những sự việc tồi tệ anh ta đã làm. Có người lại cho rằng Quý cố tình thổi phồng sự thực để tỏ ra anh ta bất cần đời, anh ta không chút mảy may mặc cảm, rằng chuyện đi tù với anh ta cũng giống như cuộc dạo chơi...

Nhưng hoá ra thiên hạ bé cái nhầm. Vài tuần sau đó, vợ Quý khóc mếu chạy đến uỷ ban xin cô Vui kí lệnh tháo vòng, với lý do ông chồng muốn có con đàn con đống, vì từ ngàn xưa tới nay người ta vẫn cho rằng nhà nào đông con nhiều cháu là " phúc lộc đề đa"; rằng nếu chị ta cưỡng lại ý thích của Quý anh ta sẽ đuổi chị ta ra khỏi cổng ngay tức khắc và đưa một đứa con gái thị thành, trẻ đẹp gấp ngàn lần " con đĩ Ngân" về nhà,... Cô chủ tịch mới hiểu rằng cô ta đang đứng trước một gã Chí Phèo thật sự, rằng "vua cũng thua thằng khùng" nên chẳng dại gì giơ đầu ra đối chọi với "kẻ vừa thoát khỏi cánh cổng nhà tù". Không hỏi han thêm một lời, cô Vui giơ bút kí đánh xoẹt. Thế là tuần sau, vợ Quý xuống bệnh viện huyện tháo vòng. Buổi chiều hôm ấy, Quý ngồi uống rượu giữa sân, ngật ngưỡng như một lão già bẩy mươi tuổi. Nửa chừng bữa rượu anh ta cất tiếng chửi đổng:

- Con gái già biết thân biết phận cắm mặt xuống mà kí lệnh. Nếu không, tao sẽ cho nó biết thế nào là võ của các "đại ca trong nhà giam".

Rồi Quý hạch vợ mang thêm rượu, nửa tỉnh nửa say, anh ta bảo hai đứa con gái với cậu con trai rằng:

- Tao bây giờ chẳng đảng bộ cũng chẳng uỷ ban, mọi dây trói đã được tháo cởi. Tao với mẹ mày cứ đẻ tha hồ, bao giờ hết trứng thì thôi. Đến lượt chúng mày cũng vậy ,cháu nội cháu ngoại đối với tao đều là lộc hết. Từ thượng cổ, các cụ đã dạy rồi:" có người là có của". Nhà mình mà đông, nhất loạt đánh một cái rắm cũng làm sập mái nhà chúng nó.

"Chúng nó" đây ám chỉ vợ chồng ông Quảng với đứa con trai vừa chào đời, được đặt tên là Quế. Thời gian Quý ngồi tù cũng chính là thời gian cô Ngân mang thai. Người khác mang thai thì ốm nghén vài tháng liền, chẳng nôn oẹ cũng ăn toàn những thứ gớm ghiếc như ổi xanh, vôi sống, ớt tươi, cà đắng... Cô vợ trẻ của ông Quảng càng chửa càng đẹp như hoa mùa xuân, da dẻ láng mượt, hai má đỏ hồng. Khi bụng đã kềnh càng như cái trống mà cô vẫn chạy phăng phăng, vẫn lên nương xuống ruộng, cười ròn như pháo tết, chẳng mảy may tỏ ra mỏi mệt. Đủ ngày, đủ tháng, Bà Tư móm đưa cô xuống huyện đẻ, quay trở về khoe khắp làng trên xóm dưới rằng đứa bé lọt lòng có ba vòng tràng hoa quấn cổ, rằng vừa gỡ tràng hoa nó đã cất tiếng khóc vang khắp mấy gian nhà, rằng tuy là con đầu nhưng nó đã nặng bốn cân rưỡi, dài năm mươi chín phân tây. Với những con số như vậy, nó đích thực là đứa bé lọt lòng lớn nhất trong vùng, không chỉ Xóm tiều phu mà trên toàn huyện.

Ông Quảng đứng chờ vợ ngoài hành lang bệnh viện. Khi mọi việc xong xuôi, ông bước vào đeo lên cổ cô Ngân một sợi dây chuyền mặt đá tạc tượng Phật bà quán thế âm Bồ tát. Tất cả những sản phụ trong vùng sẽ phải ghen tị vì điều này. Vào ngày thằng bé đầy tháng, bà Tư móm đứng lên làm ba mươi mâm cỗ mời họ hàng gần xa. Ông bố bồng đứa bé trên tay thay vì cô vợ trẻ để chào họ mạc, điều ông chưa từng làm đối với những đứa con của người vợ trước.

Họ hàng nội ngoại, xa gần của ông Quảng đều công nhận chưa từng thấy thằng bé nào đẹp như Quế, rằng nó quả là xứng đáng với sự hãnh diện cả gia đình, rằng nếu cha già con cọc mà được như gia đình ông Quảng, hẳn trên cõi đời này sẽ có hàng triệu người mơ tưởng...

Phải chăng những gì xảy ra dưới mái nhà của người cha đã dội đến tai Quý làm con tim thù hận của anh ta nhức nhối. Những lời lẽ nửa tỉnh nửa say không che giấu được nỗi đắng cay độc địa. Người ta hiểu rằng nhà tù chẳng khiến cho đứa con trai tỉnh ngộ mà ngược lại nó càng gia tăng mối hờn oán đối với người cha. Giấc mơ "phụ tử huyết chiến" vẫn tồn tại, không ngừng ám ảnh tâm hồn người dân quê. Vào những đêm tối trăng, dân Xóm Tiều phu ngước nhìn bầu trời mịt mùng mây phủ, khắc khoải buông tiếng thở dài...

Tết năm ấy, Quý gả chồng cho hai cô gái cùng lượt. Lễ cưới diễn ra trong lúc vợ Quý sắp xếp áo quần chuẩn bị xuống huyện đẻ. Cái bụng lặc lè của chị ta đã tới tháng thứ tám. Rồi đứa con thứ tư của họ ra đời khi lễ "Lại mặt" của hai cô chị vừa kết thúc. Đó là một đứa con trai, được đặt tên là Chiến, một cái tên bao hàm đủ sở nguyện lẫn ý chí của ông bố. Chiến vừa được chín tháng, vợ Quý đã mang thai. Năm sau chị ta lại đẻ con trai, bố nó đặt tên là Thắng, cũng lại là một cái tên đầy tính biểu tượng, diễn tả ước mơ của bậc sinh thành. Cùng năm ấy, hai cô Mận và Đào cũng cho ra đời hai đứa con gái. Cô chị đẻ tháng trước, tháng sau tới lượt cô em. Hai đứa bé vừa đầy năm chưa kịp cai sữa, cả hai cô lại đã có nghén, mặt xanh như lá cải, và những đứa trẻ bú sữa độc, đi ỉa chảy cả tháng ròng. Cứ như thế, gia đình này sản xuất liên tục, bất chấp mọi đàm tiếu của làng xóm... Gặp được hai anh con rể yếu bóng vía, tuy bố vợ mất chức nhưng họ vẫn còn e nể, nên giấc mơ " nhà mình đông người, nhất loạt đánh một cái rắm cũng làm sập mái nhà chúng nó " của Quý có cơ trở thành hiện thực.

Tuy nhiên... Tuy nhiên... Bởi sự đời bao giờ cũng khởi đầu bởi hai chữ tuy nhiên... Tuy nhiên, trong lúc thực hiện giấc mộng điên cuồng của mình, Quý không lường nổi những hành trang cần thiết kèm theo một đội quân đông đúc như thế. Gia đình hai chàng rể lại túng bấn vào loại được xếp hạng thường xuyên cứu tế trong xã. Nghèo khổ, nhưng họ có thói vô lo của những người sống được chăng hay chớ, nói như các cụ thuở xưa:

" Được miếng sống ăn cả miếng sống, được miếng chín ăn hết miếng chín. "

Thế nên, tiếng là cưới vợ cho con trai, nhưng những gia đình này chẳng có mảy may trong tay cắc bạc. Từ lễ ăn hỏi, cho đến cỗ " đời sống mơí " chỉ kẹo bánh với nước chè họ cũng phải ngửa tay đi vay hàng xóm rồi sau ngày " lại mặt ", vợ Quý phải tuồn phong bì cho các cô con gái để các cô trả nợ đậy. Lễ " lại mặt " vừa xong, hai cặp vợ chồng trẻ quay lại nhà bố mẹ vợ vì không có phòng riêng. Ngày hợp hôn, bố mẹ chồng phải nhường chiếc giường độc nhất cho đôi tân hôn, vác chõng tre ra ngoài hè ngủ. Thế là vợ chồng cô Mơ cũng như cô Mận chia nhau năm gian nhà ngang của bố mẹ. Mỗi cặp hai gian, còn lại gian cuối cùng là nơi chất chứa tất thảy những thứ sản phẩm cũng như dụng cụ nông gia. Với thành tích sinh đẻ vượt bực như vậy, gia đình Quý bỗng nhiên rơi theo chiều thẳng đứng từ loại gia đình ngất ngưởng trên đỉnh phong lưu xuống hạng những gia đình bơi lội lóp ngóp trong vũng lội của nỗi bần hàn. Tiền bạc dự trữ tiêu tán nhanh như lá khô mùa đông bị gió cuốn. Sức lực của Quý chẳng mấy khả quan, cái duyên làm ăn của anh ta cũng vậy. Ba năm liền, Quý xoay sở chấn hưng nền kinh tế gia đình. Dưới quyền anh ta, hai chàng rể ngoan ngoãn, bố vợ bảo gì nghe nấy. Nhưng vị gia trưởng chẳng phải người nhiều trải nghiệm trong sản xuất, hai chàng rể vốn dĩ xuất thân từ những gia đình nghèo túng lại càng vô năng. Cả một đống người tụ tập trong ngôi nhà lớn như vậy, lẽ ra phải đem lại một hơi hướng nồng ấm, đầy sinh khí, và thóc lúa cũng như tiền bạc phải được nảy nở dồi dào... Nhưng số phận không mỉm cười với Quý. Chẳng những thế, thần may mắn còn nghiến răng kèn kẹt và hắt nước lạnh vào mặt anh ta. Mấy năm liền, tuy sắn khoai trồng riêng cũng như công điểm lao động cho hợp tác đầy đủ, nhưng những món ra bạc ra tiền Quý lại hoàn toàn thất bại. Mùa hái nấm, chỉ ba người đàn ông hùi hụi lên rừng, còn những người đàn bà hết chửa lại đẻ, con bên nách, con sau lưng, những lo nuôi con đã tàn lực. Việc sấy nấm, bao nấm xưa nay vẫn thuộc về đàn bà vì nó đòi hỏi sự kiên nhẫn và khéo tay, nay chính Quý và hai hàng rể phải đảm nhiệm nên phần bị hỏng khá nhiều. Món ra tiền đáng kể nhất là nuôi ong lại càng thảm hại hơn. Đàn ong nhà anh ta hết bị bệnh " ỉa chảy " lại đến bệnh " rụng cánh " chết dần chết mòn, trong khi nhiều nhà khác mật đặc như keo, đổ đầy chum lớn chum nhỏ. Quý chạy đôn chạy đáo, hết lần mò hỏi han những gia đình nhiều năm trong nghề cho tới công ty ong của tỉnh, nhưng tuyệt nhiên chẳng ai hiểu gì về căn bệnh quái ác này: Những con ong sớm hôm trước còn khoẻ, hôm sau tự nhiên nổi nấm mốc xanh trên lưng. Thứ nấm màu xanh lam giống như màu rỉ đồng chính là một loại kí sinh trùng, chúng ăn nhanh hơn cả tằm ăn rỗi, chỉ nội một ngày chúng đã ăn lan đến cuống chân cánh ong khiến cho con vật khốn khổ rụng cánh, quay tròn như hột lạc trong đõ vài giờ rồi chết. Có một sự rủi ro bí ẩn nào đó xảy ra với gia đình Quý mà nhiều người thì thầm sau lưng anh ta, nhiều người khác sợ đến nỗi không dám nói đến. Thảng có đi qua cổng nhà Quý, họ thấy cả ba gia đình trải chiếu ngồi ăn cơm trên sân, hoàn toàn giống cảnh những gia đình cố nông thời xa xưa, cùng vẻ nhếch nhác, cùng vẻ bất lực và không còn khả năng hổ thẹn. Quãng thời gian ấy, gia đình Quý là gia đình đầu tiên ăn cơm độn sắn trong Xóm Tiều phu. Vào chính lúc đèn măng-xông vẫn thắp sáng choang trên mảnh sân bao la của nhà ông Quảng, nơi xóm giềng vẫn được đãi một cách hào phóng xôi gà lẫn các loại bánh trái. Không ai dám nói một lời. Nỗi hoảng sợ trước một nghịch cảnh khiến những con tim họ vặn thắt và mọi lời lẽ đông cứng trong cuống lưỡi. Kế hoạch " đông con lắm cháu, phúc lộc đề đa " của Quý đã vấp phải bức tường chắn, sự khốn cùng.

Sự khốn cùng là người bạn xấu tính, nhưng là kẻ thù đáng kính trọng. Nó dạy cho địch thủ những bài học mà không trường lớp nào có thể thành công. Xưa nay vốn quen nghĩ rằng " quyền huynh thế phụ ", rằng sớm hay muộn,ông Quảng cũng sẽ phải dàn hoà với anh ta để có đứa chống gậy tre, đội mũ mấn, khoác áo sô khi nằm xuống, Quý không mường tượng nổi rằng một ngày, cái người đàn ông anh ta từng gọi là cha ấy, cũng có khả năng nhìn anh ta như nhìn một kẻ qua đường.

Vào một sáng, Quý cùng hai chàng rể lên rừng đốn củi. Trời mới mơ sương, khí núi còn cuồn cuộn bốc trên các khe vực khiến ai nấy sởn da gà. Ba người đàn ông co ro trong những manh áo chưa đủ ấm, người nọ giục người kia rảo chân leo dốc để chống lại cơn giá rét. Đường dốc ngược, lại lắm đá gan gà. Những mảnh đá găm vào lớp đất ẩm sương dễ làm trơn tuột bước chân, nhất là những ai đi dép lốp. Rủi cho Quý, anh ta bỏ đôi giầy vải cũ ở nhà để đi đôi dép cao-su sáu quai cho nhẹ. Như thế, anh ta chính là nạn nhân đầu tiên tuột chân trên con dốc, lăn xuống vực. Đến ngang chừng sườn đá, một bụi gai già, kết chằng chịt những cành khô đã ngăn không cho anh ta rơi tiếp. Nhờ thế Quý thoát chết. Nhưng anh ta bị gãy bốn chiếc sương sườn. Vào lúc nằm chết dí ở bụi gai, chờ hai chàng rể xuống giải cứu, bất chợt anh ta ngước nhìn lên đỉnh dốc. Ông Quảng đứng đó, đang nhìn xuống vực. Trong tích tắc, ánh mắt của họ giao nhau. Lần đầu tiên, đứa con trai hiểu rằng mọi sự đã vĩnh viễn chấm dứt. Anh ta bắt gặp trong đôi mắt người cha một thứ lạnh lẽo rợn hồn. Thứ lạnh buốt của gió bấc tháng chạp. Thứ ánh sáng u ám của ngục luyện tội. Thứ trống vắng của những bãi tha ma. Anh ta rùng mình, vội vàng nhắm mắt lại.

Đận ấy, Quý phải nằm viện hơn hai tháng. Hai tháng ấy, anh ta thấu hiểu thế nào là sự khốn cùng. Thế nào là nỗi nhục nhã khi không đủ tiền viện phí. Thế nào là nỗi bào da, buốt ruột phải bưng bát cơm chan canh rau muống xuông trong khi kẻ khác ăn tô phở đầy tú hụ những thịt gà hay uống sữa bò. Thế nào là cơn rát mặt khi không mua nổi một bao thuốc lá lót tay cho anh chàng y vụ, hay không kiếm nổi túi kẹo làm quà cho đứa con ba tuổi của cô y tá chuyên tiêm thuốc, thay băng. Bốn chiếc xương sườn gãy cũng lâu lành vì ăn uống kham khổ. Khi vợ con nhất loạt bước vào phòng bệnh, anh ta mới có cơ hội nhìn họ từ xa, những kẻ ruột thịt của mình, cái đội quân đông đúc mà anh ta hy vọng sẽ có cơ trèo lên đầu lên cổ loại gia đình " độc đinh ", áp đảo những mái nhà " neo sơ, quạnh người, vắng tiếng ". Đội quân ấy, dẫu được đặt tên Chiến và Thắng, chỉ là một mớ người nhếch nhác, còm cõi, sự thiếu dinh dưỡng in dấu lên từng gương mặt. Khi họ sống loanh quanh trong những giải núi trúc của Xóm Tiều phu, nỗi bần hàn không hiển lộ rõ ràng. Bệnh viện huyện, người khắp huyện đến đây. Người đứng cạnh người, gương mặt sát gương mặt, sự so sánh trong một bức tranh toàn cảnh bao giờ cũng là những chứng cớ hiển nhiên, một hiện thực không thể chối cãi.

Sau khi ra viện, Quý triệu tập gia đình, xuống lệnh hưu chiến:

- Thời này nuôi người khó hơn thời trước, chúng mày tạm dừng lại đã. Khi nào gia đình nhà ta vượng lên, lại đẻ tiếp.

- Bố dạy thế nào, chúng con xin thực hành như thế.

Hai cậu con rể ngoan ngoãn đáp. Vợ Quý lẫn cô Mơ cô Mận lặng thinh. Lệnh của bậc gia trưởng được ban ra quá muộn. Vợ chồng Quý đã có ba cậu con trai: Phú, Chiến, Thắng. Vì nghe câu:

" Tam nam bất phú, tứ nữ bất bần"

nên họ đẻ tiếp đứa thứ tư. Nhưng lần này lại là con gái, mà lọt lòng được hai mươi ngày cũng chết vì quá yếu. Đứa bé đẻ ra nặng có cân tám, lại bị viêm phổi cấp tính, không trụ nổi. Còn cô Mơ, cô Mận, cô nào cũng ba nhóc bên lưng, với một cái thai bốn tháng trong bụng. Đẻ dày như sung, lại không được ăn uống đầy đủ, mẹ lẫn con đều xanh như tàu lá. Vợ Quý chỉ còn ba mươi lăm cân, da xếp nếp trên cổ. Hai cô con gái mới ngoài hai mươi tuổi mà má đã đầy vết nhăn như những chiếc râu mèo. Cả một đội quân đông đúc, chỉ những lo ăn đã héo ruột, héo gan, còn đâu thời gian lẫn tiền bạc mà chăm chút chuyện áo quần, khăn yếm. Thành ra, mỗi lần nhìn thấy họ,người làng ngao ngán bảo nhau:

- Trông kìa, con cái Mơ cái Mận bây giờ già hơn cô Ngân cả chục tuổi.

- Đích thị. Thế là cháu dâu già hơn bà trẻ cơ đấy. Thật lạ kì, bà trẻ lại càng ngày càng trẻ đẹp nõn ra. Xưa các cụ ví mỹ nhân lộng lẫy như tiên sa. Tiên sa cũng chỉ thế là cùng.

- Họ giàu thế sao không đẻ thêm nhỉ ?

- Nghe đâu cô vợ muốn, nhưng ông chồng lại không. Ông ấy bảo: Một thằng Quế đáng giá hơn mười đứa khác. " Quý hồ tinh, bất quý hồ đa".

- Ờ, ông ta có lý. Một cục vàng trong tay còn hơn mười hòn chì trong túi.

- Nhà ấy sướng thật, vợ đẹp, con đẹp, ông chồng tuy già nhưng vẫn bảnh bao. Người ta bảo:

" Cơm trắng ăn với chả chim,
Chồng đẹp, vợ đẹp, những nhìn mà no. "

Chẳng ai chối cãi được rằng cô vợ trẻ của ông Quảng đúng là hình ảnh tiêu biểu cho câu ví: " Gái một con trông mòn con mắt. ". Dân quê, tuy một nắng hai sương nhưng lại thờ phụng làn da trắng. Chiểu theo chuẩn mực ấy, cô Ngân là mỹ nhân ngoại hạng vì da cô không những trắng nõn mà còn mơn mởn như da đào khiến thiên hạ tưởng chừng cô đang còn ở tuổi ấu nhi. Ngược lại với làn da non mởn, đôi mắt cô đen như than, nhóng nhánh như sóng nước, với hai hàng mi dài rợp bóng bên trên, khiến tâm hồn chúng sinh tan nát. Đẻ xong, cặp môi cô như đỏ hơn, dầy hơn thời trước, giống trái cây mọng nước, hứa hẹn chất cam lồ của những nụ hôn. Ngực cô cũng nở ra hơn, căng vồng như hai trái bưởi dưới lần áo mỏng. Và cặp đùi cũng như các bộ phận khác trên cơ thể, thảy thảy đều gợi cho người ta cảm giác của một mùa hoa dâng đầy, ngào ngạt hương thơm tình ái.

Trong những ngày lên rừng hái củi hoặc xuống ruộng cầy vỡ, thứ công việc chỉ thuần đàn ông đảm đương, dân Xóm Tiều phu thì thầm vụng lén với nhau:

- Trên đời này chỉ lão Quảng là sướng. Vợ vua cũng chỉ đẹp đến thế là cùng.

- Ờ... xem phim Liên-xô, ối cô đào còn kém nước cô ta. Ông Quảng bỏ tiền bỏ của xây nhà lầu cho bố mẹ vợ cũng phải. Mấy người sinh được mỹ nhân ?

- Nghe đâu cô ấy đã được tuyển vào văn công trung ương rồi đấy.

- Rõ hoài của, giá cô ta vào văn công thì bao nhiêu người được ngắm.

- Vớ vẩn, vào văn công trung ương thì chẳng bao giờ cô ta thèm đặt chân đến nơi khỉ ho cò gáy này ?

- Ờ nhỉ, tôi quên mất.

- Giờ, tôi hỏi các ông một câu: Giá được ngủ với người đẹp như cô ta một lần, rồi sớm mai lên máy chém, các ông có dám hay không ?

- Dám quá đi chứ. Đời người được mấy tấc gang ?

- Ồ không, tôi chẳng dại... Cô ấy đẹp thật. Trước người đẹp thằng đàn ông nào chẳng thèm rỏ dãi, nhưng còn bao nhiêu chuyện phải tính trên đời.

- Chuyện gì ?

- Gia đình, gia tộc, tương lai con cháu, mồ mả ông cha. Ai dại gì mà cúi đầu nghe theo cái con củ ?

Những cuộc đàm thoại như vậy như ngọn gió luồn từ núi nọ qua núi kia, từ vực này bay sang vực khác. Và cuộc sống nơi Xóm Tiều phu như vậy diễn ra trong nhịp điệu bình thản vùng sơn dã. Người ta vẫn thấy chiếc xe ngựa của ông Quảng khi đi, khi về, tiếng lục lạc reo ròn rã trên đường thôn. Mỗi bận ông về, mảnh sân nhà ông lại sáng rực ánh đèn, lại rộn rã tiếng người chuyện trò xen lẫn tiếng đài Sương-mao, khi thì là bản tin, khi thì là tiếng hát lanh lảnh của cô ca sĩ Thương- Huyền:

" Lặng nghe bên bờ suối, có con chim đang chuyền...
Lặng nghe con tim em, tình yêu anh ca hát... "

Mùa đông tàn cất tiếng gọi mùa xuân. Mùa hè chưa qua những làn sương heo hắt đã từ các ngọn núi lan xuống báo hiệu một mùa thu dài đầy mưa bão. Thấm thoắt đến ngày cu Quế đầy năm tuổi, tuổi mà mọi đứa trẻ Xóm Tiều phu phải đến lớp vỡ lòng. Cả xã, chung một trường tiểu học. Nhưng thôn Thượng, thôn Trung, thôn Hạ đều có lớp vỡ lòng kèm theo lớp mẫu giáo riêng. Lớp mẫu giáo lại chia làm hai: lớp bé dành cho trẻ từ ba đến bốn tuổi ; lớp lớn dành cho trẻ từ bốn đến năm. Còn trẻ năm và sáu tuổi đều được tuyển chung vào lớp vỡ lòng, lớp chính thức dạy chữ viết, các con tính đơn giản với bảng cửu chương, chuẩn bị cho năm thứ nhất của trường tiểu học. Như vậy, tất thảy những gia đình có con từ ba đến sáu tuổi ắt phải thuộc con đường dẫn đến lớp học này. Lẽ ra, cu Quế đã phải đến lớp từ lâu, nhưng là con một, quý tử được mẹ lẫn chị Tư móm cưng chiều nên bỏ trốn lớp mẫu giáo. Ở nhà, hai người đàn bà dạy nó chữ cái, đếm các con số, phép cộng, phép trừ sơ giản. Khi nó đã tròn năm tuổi, họ không còn lý do để giam nó trong những vòng tay âu yếm của mình.

- Năm nay, cu Quế phải đến lớp học như mọi đứa trẻ trong làng.

Ông bố ra lệnh.

- Vâng, cháu cũng đã nghĩ đến việc ấy.

Bà Tư móm đón lời.

Cô Ngân lặng thinh, nhưng mở tủ chìa cho ông Quảng xem chiếc cặp da mới tinh, trong đó đã đầy đủ sách, vở, bút, phấn... tất thảy những gì cần thiết cho ngày tới trường của Quế .

Vùng sơn dã, xóm nọ cách xóm kia một quãng đường dài, có khi là một giải núi, không chen chúc như những làng dưới vùng châu thổ sông Hồng hay sông Mã. Trên một vùng dài rộng như thế, các đội sản xuất có thể cả năm không gặp gỡ nhau, nếu chẳng có những ngày họp đại hội toàn xã. Cũng vì vậy mà qua mấy năm liền, kể từ mùa hái nấm đầu tiên chạm trán nhau trên con dốc độc đạo, cô Ngân không còn nhìn thấy vợ con Quý. Bởi từ mùa nấm năm sau, cô nghỉ đẻ và nuôi con. Khi đứa bé khá lớn, đức lang quân ra lệnh:

" Ra tay một lần cho thiên hạ biết mặt, thế là đủ. Chúng ta không thiếu miếng ăn để phải lăn lóc xuống núi, lên rừng ! "

Ngân lặng im. Chính cô cũng không còn muốn nhìn lại những gương mặt thù nghịch. Vào những dịp hội họp toàn xã, họ tìm cách tránh mặt nhau. Ngay đến cả những ngày đội y tế huyện về tiêm phòng bệnh cho trẻ, nhà nọ cũng dò hỏi láng giềng chờ nhà kia ra về rồi mới đặt chân tới. Cô vợ trẻ của ông Quảng sống với hạnh phúc của cô. Gia đình đứa con trai ông sống với những cơn vật lộn trong bão táp mưu sinh và những nỗi niềm riêng của họ. Ngày tiếp ngày, tháng qua tháng, năm rồi lại đến năm... cuộc sống trôi đi như dòng sông lớn cuốn theo nó phù sa lẫn rác rến, bèo bọt. Dường như cô Ngân đã quên cái thời cô mới đặt chân về Xóm Tiều phu, cô đã quên đi những khoảnh khắc kinh hoàng, tàn độc, dường như cô đã quên những con người đứng trong bóng đêm quá khứ của ông chồng, những cái tên gắn chặt với một kỉ niệm xấu xa khủng khiếp. Còn họ, chắc chắn họ nhớ đến cô, vì những kẻ nép mình trong bóng tối thường nhìn rất rõ người đứng giữa vùng ánh sáng.

Rồi, ngày khai mạc lớp vỡ lòng và mẫu giáo cho trẻ em thôn Thượng đã đến. Tất thảy các bà mẹ đều phải dẫn con mình đến nơi ấy, trong cái ngày vô cùng trọng đại với cuộc đời đứa trẻ. Ở đấy, chúng sẽ được học múa, học hát, học vẽ trên cát và trên bảng. Chúng sẽ học những bài đồng dao đầu tiên. Chúng sẽ học những câu thơ đầu tiên mô tả thế giới xung quanh, cái thế giới mà người ta đã đặt chúng vào và chúng phải khám phá để tồn tại... Bởi thế, ai ai cũng hiểu rằng lớp vỡ lòng và mẫu giáo tuy chỉ là một bộ phận độc lập của trường tiểu học nhưng thực sự lại là lớp học quan trọng nhất, khởi đầu cho tuổi thiếu niên. Không phải trẻ con mà chính các bà mẹ mới là những người hồi hộp nhất. Có lẽ, đấy cũng là ngày hạnh phúc, nếu có thể gọi như thế. Ngày ấy, trái tim xốn xang, những người mẹ dắt con bước qua ngưỡng cửa gia đình để gửi gắm vào một mái nhà khác. Lần đầu tiên, họ tách rời những đứa con để giao phó cho người ngoài. Gần giống như chim mẹ đẩy chim con ra khỏi tổ để chim con buộc phải học bay, có một chút xé lòng, có một chút khắc khoải, có một chút đắn đo, và sau cùng, có rất nhiều hy vọng.

Vào cái ngày trọng đại ấy, chẳng ai nhớ rằng cả thôn chỉ có ngôi nhà duy nhất dành cho hai lớp mẫu giáo lẫn vỡ lòng. Và do đó, sự chạm trán giữa những kẻ vốn là cừu thù sẽ không tránh khỏi. Ấy là một ngôi nhà ba gian cao rộng, toạ trên sườn đồi, dưới bóng mát của một cụm du già, bốn mùa xanh rì màu lá, bốn mùa lảnh lót tiếng chim. Phía trước, một mảnh sân rộng và khá bằng bặn, rải sỏi. Chính giữa sân, một vườn hoa tí xíu trồng chen chúc đủ loại hồng gai, cúc tím và mào gà. Xung quanh vườn hoa là sườn đồi rộng, mọc đầy những thứ cỏ gà, cỏ tóc tiên, cỏ gấu, cỏ chuồn chuồn. Giờ ra chơi ,lũ trẻ sẽ tha hồ bò lăn, bò lết. Sườn đồi nghiêng xuống một bờ cây bạch đàn. Bờ cây ấy chạy dọc theo đường thôn, nơi các bà mẹ sẽ từ hai ngả khác chiều đổ tới, hai chiều đó dẫn từ hai khu dân cư thuộc xóm bắc và xóm nam thôn Thượng.

Sáng hôm ấy, cô Ngân cho con ăn sớm hơn thường lệ, rồi tụ tập với những người mẹ trẻ xóm bắc. Hơn một chục bà mẹ, với ngót hai chục đứa bé tạo thành một đoàn vui vẻ. Vừa vượt qua rặng cây, nhìn thấy ngọn đồi lũ trẻ đã nhất loạt chạy lên . Cả bọn vừa chạy vừa la hét. Ngôi nhà trắng với khóm cây du già mời gọi chúng. Trên đó, đã lố nhố những người. Dân xóm nam đi sớm hơn bọn họ. Không gian tràn đầy tiếng nói cười. Hoà vào đó là tiếng chim hót, khúc nhạc rộn ràng làm xanh thêm khung trời xanh ngắt mùa thu.

Như những người mẹ khác, không khí buổi tựu trường khiến Ngân sung sướng. Như họ, cô cũng nói cười xôn xao và đuổi theo đứa con trai của mình. Lũ trẻ luôn luôn nhanh chân hơn các bà mẹ, khi chúng muốn vượt qua những vòng tay giằng trói. Lúc Ngân túm được cu Quế, cũng là lúc cả bọn đã tới sân trường. Trước mặt họ, ngay trước khuôn cửa lớp vỡ lòng, ông giáo Tốn đứng chỉnh tề, kính trên sống mũi, áo sơ-mi gài tận cổ, cuốn danh bạ mở sẵn trên tay. Hai bên ông là hai cô giáo trẻ, cô nào cô nấy diện áo phin hoa, nơ cài trên tóc. Ba người đứng theo đúng đội hình trường học: ông giáo Tốn dạy vỡ lòng, lớp chính giữa. Bên trái là lớp mẫu giáo bé, và bên phải là lớp lớn. Ba lớp ngăn cách nhau bởi những bức tường xây con kiến, quét vôi trắng, trang hoàng bằng những bông hoa vải đỏ. Bức tường chính diện treo tấm bảng danh dự, đề hàng chữ to tướng: " Trò giỏi, bé ngoan. " .

Tất thảy những con mắt của các bà mẹ tập trung vào đôi kính trên sống mũi ông giáo Tốn, nhân vật quan trọng nhất, con người mà họ sẽ kí thác lũ trẻ, người thầy sẽ dìu dắt chúng những bước đầu tiên chập chững vào đời. Ông giáo dạy vỡ lòng từ thuở còn là một chàng trai, từ thời chính quyền còn nằm trong cái tráp của ông lý trưởng, cái thời mà người ta gọi những ai đi làm nghĩa vụ quân sự là " bị bắt lính ", và nhà nào càng đông con trai thì càng phải đóng nhiều xuất thuế đinh. Chiến tranh, cách mạng, trường kì kháng chiến, cải cách ruộng đất rồi lại sửa sai, chia ruộng rồi lại thâu tóm đất đai về một mối, thâu tóm về một mối rồi lại phải san sẻ một phần ra " đất phần trăm của gia đình " vì có nguy cơ chết đói... Tất thảy những biến dời ấy không chạm tới được lông chân ông giáo Tốn, kể ra cũng là một sự lạ lùng. Người thì bảo ông ấy ăn hiền ở lành nên thần linh phù trợ, người lại cho rằng thời nào con người cũng sinh con đẻ cái. Ai ai cũng máu đỏ, ruột mềm. Ai ai cũng muốn con mình trở thành người tử tế. Đã muốn thế thì phải biết kính trọng ông thầy. Theo cái chân lý mộc mạc ấy, ngay cả những kẻ ngu dốt, tàn độc và đểu cáng nhất nhảy lên làm " ông nọ bà kia " trong thời cải cách cũng chẳng dám hạ nhục hay hành hạ cái con người được coi như hiện thân của tinh thần trách nhiệm và tình yêu trẻ. Buổi tựu trường hôm ấy, người ta dán mắt vào cặp gọng kính trên sống mũi ông với niềm tôn kính và sự chăm chú tuyệt đối. Ông già mảnh khảnh, nghiêm trang kia chính là người quyết định phần đầu cuộc đời của con cái họ. Ông giáo Tốn chờ cho moị người tề tựu đủ, nhìn khắp bốn bên để kiểm tra lần cuối xem còn sót ai không. Đoạn ông nâng cuốn danh bạ lên cho vừa tầm mắt. Cuộc điểm danh bắt đầu, theo thứ tự chữ cái, khởi từ những đứa trẻ có tên A: An, Anh, Ánh, Ảnh... Ngân biết rõ con cô sẽ xếp vào gần hạng cuối cùng với vần Q. Nhưng cô lắng nghe tên những đứa trẻ láng giềng, cũng với một tinh thần chăm chú bởi chúng chính là những người bạn đồng môn với con mình.

Bất chợt, cô giật nảy mình khi nghe ông giáo già xướng tên:

- Lại văn Chiến.

Một giọng đàn bà lí nhí đáp lại:

- Dạ, cháu có đây

Ông giáo già đọc tiếp:

- Lại văn Thắng.

Đọc xong, ông ngước lên nhìn mọi người, giải thích:

- Trò Thắng tuy đứng ở vần T nhưng gia đình yêu cầu cho được xếp cùng hàng ghế với anh ruột, Lại văn Chiến. Lý do ấy chính đáng, vì thế tôi đã vượt qua thứ tự chữ cái để gia đình được toại nguyện. Trò Thắng có mặt chưa ?

- Dạ, cháu có đây.

Giọng đàn bà lí nhí đáp lại, nhưng chẳng ai nhìn thấy chị ta đâu. Ai đó lên tiếng giục:

- Đưa cháu lên hàng trên. Sao mà luấn quấn vậy ?

Nhưng người mẹ vẫn lặng thinh. Lúc ấy Ngân mới hiểu rằng người đàn bà có giọng nói lí nhí, nép mình sau lưng những người khác chính là vợ Quý. Hai đứa trẻ vừa được xướng tên chính là con chị ta. Cả một đám người trồi lên từ vùng sương mù quá khứ. Cái vùng bóng tối mà cô ngỡ đã quên, giờ quay trở lại. Lại văn Chiến, Lại văn Thắng... Chúng đích thị là những cành nhánh có liên đới đến gốc rễ: Lại văn Quảng... Những cành nhánh ấy giằng néo đến đứa con trai xinh đẹp của cô: Lại văn Quế. Và chắc chắn mai đây những gã đàn ông bé nhỏ mang họ Lại này sẽ cùng chạy nhảy, nhào lộn trên sườn đồi đầy cỏ hay dưới bóng những cây du... Ý nghĩ ấy vừa như hiển nhiên vừa lạ lùng và khiến cô hoang mang trong giây phút. Rồi cô thấy ông giáo Tốn sửa cặp kính trên sống mũi, đưa mắt nhìn quanh:

- Nào, hai anh em Chiến Thắng bước lên hàng trên cho các cô giáo rõ mặt. Hai cháu sẽ cùng ngồi một lớp mẫu giáo lớn phải không ?

- Dạ, thưa thầy cho cả hai đứa vào lớp bé. Thằng anh hơn thằng em có một tuổi rưỡi, con cho nó ở nhà chơi với em rồi cùng đến trường một thể.

- Thôi được, thế cũng tiện. Nào, đưa các cháu lên đây...

Ông giáo già vừa cười vừa đáp. Những người đứng hàng trên lẳng lặng rẽ sang hai bên để nhường lối cho người mẹ dắt hai đứa con từ phía sau bước lên. Lúc ấy, Ngân mới nhìn ra vợ Quý. Ngay tức khắc, một cơn rùng mình như điện giật toàn thân. Trước mặt cô là một người đàn bà héo rũ như nắm giẻ, gương mặt hóp lại như mặt chim với cái cằm nhọn. Hai quầng mắt thâm tương phản cặp đồng tử bạc phếch khiến cặp mắt chị ta giống mắt của kẻ mắc chứng máu trắng trong thời gian hấp hối. Màu da của chị ta gần như màu da xác chết, với những nếp nhăn dài như nan quạt xếp lại hai bên thái dương và dồn từng nhúm dưới cần cổ. Từ trán xuống mang tai lốm đốm những vết sạm nâu. Không ai có thể tin đó là một người đàn bà hơn bốn mươi tuổi. Chị ta còn già hơn cả một người ở tuổi sáu mươi vì phía trên gương mặt tàn tạ ấy lại là một mái tóc xơ xác với những lọn tóc bạc trắng chạy từ trán lên đến tận đỉnh đầu.

Có lẽ Ngân đã thốt lên một tiếng kêu hoặc làm một cử chỉ nào đó khiến mọi người quay lại nhìn cô. Lúc ấy, họ mới nhớ rằng cô là người duy nhất trong xã không chứng kiến sự tàn phá xảy ra trong gia đình Quý. Những người khác đã chứng kiến sự suy sụp ấy từng ngày, từng tuần, từng tháng. Họ nhìn thấy những người đàn bà kiệt lực vì sinh đẻ và đói ăn, những đứa trẻ thiếu dinh dưỡng bụng ỏng, đít vòn. Những gương mặt tối sạm lần lần cùng năm tháng. Họ không ngạc nhiên bởi sự huỷ hoại của đói nghèo đã diễn ra trước mắt họ như một cuộc trượt dài từ trên đỉnh núi xuống chân núi, một chu trình từ cây cỏ non tháng hai cho đến xác cỏ khô tàn vào tháng chín, tháng mười. Với họ, những hình ảnh ấy đã được tập nhiễm, đã trở thành quen thuộc. Chỉ riêng cô, đứng ngoài hiện thực này.

Khi thấy tất cả mọi người quay lại nhìn Ngân, bắt buộc vợ Quý cũng phải ngẩng đầu nhìn kẻ cừu thù. Hai luồng mắt giao nhau, cô Ngân bật lên một tiếng kêu, không rõ vì kinh hoàng, vì sợ hãi, hay vì động tình thương xót. Hoặc là cả ba thứ cảm giác đó hoà trộn thành một mối xúc cảm bất khả duy danh. Rồi nước mắt trào qua mi. Người đàn bà trẻ mím môi, cố giữ lại cơn thảng thốt, nhưng đôi môi cô run bần bật và sau một cố gắng cuối cùng, tiếng khóc tràn qua mọi ghìm nén, bật thành cơn. Ở đầu bên kia sân, vợ Quý cũng run như con cò chịu bão. Chị ta cũng khóc nức nở, cắm mặt xuống mà khóc, nước mắt chảy dài trên gương mặt rúm lại vì đau đớn và tủi nhục. Ai nấy trân trân nhìn họ. Mắt những người đàn bà đỏ hoe. Vài cô gái sụt sịt chùi mũi. Ông giáo Tốn dừng lại cuộc điểm danh. Những đứa trẻ im lặng sững sờ. Không gian bỗng nhiên chỉ còn tiếng gió. Và trên tiếng gió, tiếng chim hót nhởn nhơ.

Như thế, trôi qua những khoảnh khắc mà tất thảy mọi người đều bối rối. Sau đấy, ông giáo Tốn cất lời:

- Nào, trò Chiến, trò Thắng lại đây.

Khi hai đứa bé rụt rè tiến đến trước mặt ông, ông giào già dắt chúng bước về phía mẹ con cô Ngân:

- Đây là trò Lại văn Quế, các trò là những người có cùng một dòng máu. Từ hôm nay các trò sẽ cùng học dưới một mái trường, cùng chơi trên một sân cỏ. Hãy chào nhau đi !

Ba đứa trẻ chưa hiểu nổi những gì người ta yêu cầu chúng phải làm. Chúng nhìn nhau bỡ ngỡ. Một đứa cao lớn, trắng trẻo, sạch sẽ thơm tho từ đầu xuống chân. Hai đứa kia ốm nhách, gương mặt nháo nhác bần hàn. Lúc ấy, vợ Quý tiến đến, đẩy lưng hai đứa con trai:

- Chúng mày chào chú đi. Nói rằng: chúng con xin chào chú Quế.

***

Sau buổi tựu trường, Xóm Tiều phu sôi động. Nước mắt của hai người đàn bà thù nghịch khơi dậy ngọn gió lành. Phải chăng chúng chính là những dòng suối rửa oán hờn, nơi con người có thể lặn ngụp để tẩy sạch những vết đen trong tâm khảm ? Dân quê vốn không thích những lý thuyết mỹ lệ, nhưng họ chú tâm đến các sự việc xảy ra trước mắt mình. Hiện thực quan trọng nhất với họ là hiện thực được cảm thức bằng giác quan. Điều trước tiên họ thấy là cô Ngân đã đứng ra đóng toàn bộ chi phí học hành cho những đứa con trai Quý. Rồi vào ngày ông Quảng trở về, trong bữa cơm tối gặp gỡ láng giềng như thường lệ, Chiến và Thắng được mẹ chúng sai:

- Vào nhà chào bà trẻ. Rồi bà trẻ cho gì thì mang ra đây.

Hai đứa bé vào bếp còn vợ Quý đứng nép ngoài bờ dậu nhà hàng xóm. Lát sau, chúng quay ra, lễ mễ xôi với gà. Ba mẹ con trở về, như đội quân quay về thành trì với chiến lợi phẩm. Lần thứ nhất còn lúng túng, ngượng ngùng. Lần thứ hai, thứ ba trở đi mọi sự diễn ra như một thứ hiển nhiên tuyệt đối. Gặp người làng người xóm, vợ Quý không chờ những câu hỏi xa, hỏi gần, mà gióng giả nói trước:

- Hôm nay trên nhà ông cháu có liên hoan, bà trẻ nhắn lên lấy phần.

Dân làng mừng cho họ, nhưng người ta không khỏi tò mò. Họ muốn biết phản ứng của bậc gia chủ ra sao.

Lần nào đó, nhân dịp cả xóm cùng lên rừng hái củi, một cô bạo mồm bạo miệng hỏi Mơ:

- Thế xôi gà , bánh trái nhà ông nội, bố Quý có ăn không ?

- Không. Chẳng những không ăn, lần đầu thấy mẹ tôi vác phần lộc về nhà, ông ấy còn ném vỡ tan cái bình tích.

- Sao lại thế ?

- Bởi bố tớ hận, ông ấy chửi: Chúng mày làm nhục ông. Vợ với con toàn lũ khốn nạn, toàn đồ chết giẫm.

- Cho đến tận giờ vẫn thế hay sao ?

- Không. Từ lần thứ hai trở đi, ông ấy không chửi nữa. Nhưng ông ấy vào buồng nằm. Mẹ tớ bảo mọi người không được ngồi sân ăn mà phải chui vào bếp.

- Để làm gì ?

- Để cho ông ấy khỏi ngứa mắt.

- Vẽ chuyện.

- Ai biết được lòng người ?

Cô Mơ kết luận, vẻ bí ẩn. Người ta không thể hỏi thêm điều gì nữa.

Cuối mùa đông năm ấy, Quý bị cảm nhập tâm. Hai đứa con rể phải võng anh ta xuống bệnh viện huyện. Chắc chắn đó là hậu quả của mấy năm quyết chí phục thù, hao tâm tổn sức mà chỉ gặt hái được những thất bại, đắng cay. Cảm cúm là thứ tai nạn mà thảy thảy mọi người đều chạm trán, trừ những ai chân sắt da đồng. Nhưng với người bình thường, khi phải cảm chỉ cần trục xuất gió độc bằng cách cho bệnh nhân nôn, đại tiện hoặc đánh gió, xông hơi, rồi sau đấy cho họ ăn cháo loãng thật nóng và nằm nghỉ. Cảm nhập tâm chỉ xảy đến với những ai đã suy kiệt, cơ thể không còn khả năng chống đỡ sự tấn công của ngọai cảnh. Bị cảm nhập tâm nặng có thể đột tử, nếu nhẹ cũng phải tốt thuốc và bồi dưỡng dài ngày. Buổi trưa Quý ngã bệnh, anh ta vừa đi làm đồng trở về, vừa bước vào giếng dội gáo nước tắm đã lăn đùng ra ngay, toàn thân cứng như đá, da đen tím. Người làng vạch tấm chăn che võng ra nhìn, lắc đầu. Vợ Quý chạy te tái sau, miệng méo xệch, nước mắt chảy dài trên má.

Nhưng chắc hẳn số Quý chưa tận, nên ở dưới viện, anh ta may mắn gặp được một bác sĩ tốt tay nghề và được cứu thoát. Sau ba ngày hôn mê, ngày thứ tư anh ta mở được mắt ra và húp được lưng bát nước cháo. Vợ Quý quay về làng, vì còn một trăm thứ việc phải lo khi ông chồng vắng mặt. Chị ta về buổi trưa, ngay buổi chiều bà Tư móm đã dẫn thằng cu Quế đến cổng, dặn dò:

- Đây là nhà anh Quý, bố thằng Chiến với thằng Thắng. Em cứ đi thẳng qua sân lên nhà trên mà gặp mẹ chúng nó.

Quế bước vào, đi qua sân lên thẳng nhà trên, theo đúng lời chị Tư móm dặn. Ở đó, nó đưa chiếc phong bì dày cộp cho mẹ hai đứa cháu đồng môn:

- Mẹ em bảo đưa cái này cho chị.

Người làng đứng bên ngoài hóng chuyện. Sau cùng, ai nấy đều buông tiếng thở dài:

" Thế gian muôn đời vẫn vậy. Máu chảy ruột mềm..."

Và người ta nhìn lên đỉnh Lan Vu, như thầm cầu xin các vị thần linh chứng giám cho sự thanh lọc của cõi người, xin cho giấc mơ " Phụ tử huyết chiến " được hoá giải, xin cho cuộc sống của sơn dân được vĩnh hằng với những niềm tin và những ước mơ an lành lưu truyền tự ngàn xưa.

(Hết) Truyện Xóm Tiều Phu

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire