jeudi 15 janvier 2009

ĐỈNH CAO CHÓI LỌI (4) - Au Zénith- Dương Thu Hương

NGƯỜI ANH EM ĐỒNG HAO KHÔNG BIẾT MẶT

Theo thông báo của ban chỉ huy sư đoàn, bảy giờ tối chương trình biểu diễn mới bắt đầu. Nhưng bữa cơm chiều đã xê dịch từ bốn rưỡi lên ba giờ rưỡi, và cơm nước xong lính tráng đã kéo lên đầy trước sân khấu, nhốn nháo chuyện trò, nhốn nháo chờ đợi, với tất cả vẻ hăm hở của đám đàn ông từ lâu thiếu vắng bóng đàn bà. Mấy anh chàng háu ăn còn cầm trong tay tảng cháy to tướng vừa gặm vừa ngong ngóng nhìn lên mớ phông màn như muốn tìm sau những tấm vải màu loè loẹt ấy hình bóng " công chúa của lòng anh ". Các công chúa mộng tưởng đang còn ngủ trong hầm ban chỉ huy, phần vì mệt mỏi sau quãng đường dài, phần vì nàng nào cũng có nước da xanh rờn và làn môi trắng nhợt vì sốt rét nên chẳng ai muốn lộ diện trước khi son phấn. Các nàng đang còn nằm cuộn lấy nhau như đám sâu tằm trên ván, cố chợp mắt thêm một vài giờ trước khi lên sân khấu. Ban chỉ huy sư đoàn hẹn sẽ đánh thức các cô lúc năm rưỡi. Nhưng chưa đến năm giờ, lính tráng đã hò hét ầm ầm bên ngoài:

- Các nàng tiên ơi, ngủ làm gì nhiều thế? Mấy năm trời mới được gặp mặt nhau ai mà nỡ quay mặt vào tường ngủ hoài như vậy?

- Các cô em ơi, dậy đi thôi. Mong mãi mới tới ngày hôm nay.

- Các nàng công chúa đâu rồi?Cho chúng tôi được chiêm ngưỡng dung nhan một chút?

Những tiếng gọi, tiếng kêu, tiếng cười đùa mỗi lúc mỗi ầm ĩ vọng xuống hầm khiến các cô không thể nằm lì, đành ngồi dậy. Cô nào cô nấy ngáp lên ngáp xuống đến sái quai hàm. Trợ lý của sư đoàn trưởng hắng giọng một hồi rồi chui vào hầm, nghiêng đầu ngoẹo cổ nói:

- Xin chị em thông cảm, lính tráng lâu ngày quá không nhìn thấy bóng phụ nữ. Đã hơn ba năm trời trên không cử các đoàn văn công tới đây.

Cô đoàn phó đáp:

- Chúng em đi đến đâu cũng vậy, anh không cần băn khoăn. Chiến trường quá rộng, các đoàn không đủ để phục vụ.

- Cảm ơn, được chị em thể tất là đại may mắn cho sư đoàn. Giờ, tổ anh nuôi mang cơm đến cho chị em dùng bữa rồi hoá trang kẻo muộn.

- Trưởng đoàn đâu rồi?

- Trưởng đoàn đã dùng bữa với ban chỉ huy ngoài kia. Các nam diễn viên cũng vậy.

Đoàn phó quay lại hét quân:

- Đã thấy chưa? Riêng chúng ta được ưu tiên ngủ nướng. Mọi người đã cơm nước xong đang lo bố trí phông màn. Còn ai muốn ngáp thì ngáp cho đã thèm rồi chuẩn bị ăn cơm.

Các cô chưa kịp đáp lời tổ anh nuôi đã lóp ngóp chui vào, lục cục xoong nồi với các loại ga-men quân dụng. Anh nào anh nấy hí hửng như bắt được vàng. Họ được ưu tiên gặp các cô trước tiên, mà lại gặp khi chưa son phấn, không nói cũng biết được sự thân tình, giống như khách lạ thì được tiếp ở sa-lông, còn khách thân quen hay họ hàng thì được quyền chui vào bếp:

- Hôm nay chúng tôi đặc biệt làm món nộm rau chuối thịt gà và nấu chè đỗ xanh đãi các cô nương. Sư đoàn phải cử người vào bản Vân-kiều từ tuần trước mua gà, mua đỗ. Chúc các nàng tiên ăn ngon miệng.

- Cảm ơn các anh. Ăn chè này đêm nay múa chắc dẻo tay hơn.

Các cô xúm lại ăn cơm trong khi ba chàng cấp dưỡng ngồi chầu xung quanh, anh xới cơm, anh đơm chè, anh thứ ba hấp háy mắt và ngoác mồm ra cười một nụ cười vô duyên cớ. Trợ lý sư đoàn đứng trong góc hầm, chẳng có việc gì làm nhưng cũng không muốn đi ra sớm hơn ba gã lính nuôi quân, nên vờ rút trong túi ra cuốn sổ tay, xem đi xem lại. Cơm nước xong, ba chàng nuôi quân lễ mễ thu dọn bát đĩa đem đi. Trước khi quay ra còn hẹn là đêm nay, sau khi biểu diễn sẽ có cháo gà đãi khách quý. Hẳn là những con gà này đã được đổi bằng lương khô hay gạo cho dân bản Vân-kiều. Trợ lý sư đoàn liếc đồng hồ rồi hỏi:

- Lúc này đã năm giờ hai mươi phút. Liệu chị em cần bao lâu để hoá trang và thay áo quần?

- Hai mươi lăm phút, không hơn.

- Hoan hô. Tôi sẽ thông báo cho anh em biết.

Anh ta chui khỏi hầm. Chưa đầy chớp mắt đã nghe tiếng vỗ tay, tiếng hét ầm ĩ của lính bên trên.

Đoàn phó tủm tỉm cười:

- Lính sư này ngầu thật.

Một cô đáp:

- Toàn dân Bắc mà lại.

- Đúng rồi.

Cô thứ hai tiếp lời:

- Họ chờ đợi chúng ta vì vừa muốn xem biểu diễn vừa muốn gặp đồng hương. Nghe nói đoàn văn công tới đây phục vụ mấy năm trước là đoàn Dân ca liên khu năm.

- Liên khu năm ở đâu nhỉ?

- Rõ là dốt, phục vụ quân đội năm sáu năm mà không phân biệt được các quân khu.

- Ai hơi đâu mà biết. Trên bảo đâu thì đi đấy. Lối nào cũng chỉ thấy suối với rừng...Hết rừng đến suối, hết suối lại rừng, hết bản Vân kiều lại đến bản Lào nưng, Lào thọng. Nơi nào cũng chỉ nhăm nhăm trông vào cái gậy của giao liên mà bước.

- Ờ, tao cũng thế, chẳng biết liên khu là cái gì. Đi đâu cũng chỉ nhìn vào lưng hay vào mông của người đi trước.

- Mông còn là may. Chúng mày không nhớ hồi leo núi Khỉ đái hay sao? Dốc dựng như tai mèo, gót chân thằng đi trước chạm vào đỉnh đầu thằng đi sau, lấy đâu mà nhìn mông với đít?

- Ờ, trận ấy khiếp thật. Mây quấn lấy mắt, leo núi mà rờ rẫm như thằng mù. Phúc đức tổ tiên nên không đứa nào rơi xuống vực.

Các cô chưa kịp thay quần áo xong đã nghe trợ lý sư đoàn hắng giọng bên ngoài. Đoàn phó nói với lên:

- Đúng bẩy phút nữa.

Đoạn quay lại bảo chị em:

- Nhanh tay lên. Lính nhảy cỡn lên trên kia rồi. Chắc sư đoàn này bị tù lâu quá trong rừng sâu, không thoáng khí như sư đoàn trước.

- Đúng đấy. Lần trước lính tráng không hò hét loạn xị như hôm nay.

- Thì đã bảo là họ bị nhốt trong sâu lâu quá.

- Đây là đâu vậy?

- Biết được. Nhưng nghe đoàn trưởng nói mình đang ở trên đất Lào. Mà là vùng xa vùng sâu trên đất Lào.

- Thế hả? Bốn bề mịt mù những rừng với núi. Bọn mình mà bị lạc chắc chết rũ xương ở đây, chẳng thể tìm được lối quay về.

- Chắc chắn là vậy. Nhưng sống chết có số, lo gì. Bao giờ lính chết hết bọn mình mới phải chịu số phận hẩm hiu như thế. Văn công là mì chính cánh, là vàng ròng của chiến tranh. Không ai để cho chúng ta thất lạc.

Các nàng trang điểm và diện đồ biểu diễn xong nối đuôi nhau chui khỏi hầm. Lính tráng đứng chen chúc hai bên từ cửa hầm cho đến tận sân khấu vỗ tay ran ran, hò hét loạn xạ:

- Các nàng tiên xinh đẹp, nói lên vài câu cho anh em nghe giọng Bắc.

Phó đoàn lúng liếng cười và hỏi:

- Biết nói gì bây giờ nhỉ?

Thế là đám lính nhao nhao, tranh cướp nhau trả lời:

- Nói bất cứ câu nào...Hoặc kêu to lên cũng được.

- Em ơi, chúng tôi là dân Hải Hưng. Em chỉ cần kêu to lên hai tiếng: Hải Hưng ơi !...Thế là đủ mát dạ lính tráng.

- Gọi riêng Hải Hưng nhà chúng mày, thế còn Hà nội, Hà Tây, Hà bắc, Vĩnh phú nhà chúng tao thì vứt cho chó nhá à? Thằng này đúng là quân ích kỉ.

- Hải phòng nữa chứ? Thành phố hoa phượng đỏ mà bị bỏ quên thì bom Mỹ sẽ giáng xuống đầu cả bọn.

- Thôi, không phải cãi nhau nữa. Chị em ơi, cứ chửi cha chúng nó lên một câu cũng được.

Rồi các cánh tay vươn ra sờ vào vai vào áo, ve vuốt đuôi tóc của các nàng. Họ đi đến đâu, lính tráng cuốn theo đến đấy. Ban chỉ huy sư đoàn đứng phía xa, tủm tỉm cười, quan sát cảnh tượng với con mắt thèm thuồng không che giấu. Tuy nhiên, là lãnh đạo, họ phải biết dằn lòng, dù muốn hay không. Theo thông lệ, các cô chia thành từng tốp nhỏ, mỗi tốp hai ba cô để hàn huyên với lính, trước khi biểu diễn. Lần này cách thức đó xem ra bất ổn vì sư đoàn vừa được bổ sung quân nên vượt số khung. Cả một ngàn lính đứng chen nhau tầng tầng lớp lớp. Đoàn phó ra lệnh:

- Đông thế này không thể nào tâm tình cho xuể. Tôi đề nghị chị em chia theo địa phương, hát phục vụ binh lính ngoài chương trình chính thức. Tổ nhạc công cũng sẽ chia theo.

Được lời, các vị lãnh đạo ban đồng hương hò hét loạn xị:

- Hải Hưng đâu? Đi theo tôi về phía trái sân khấu, ngay sát chân cột loa phóng thanh.

- Hà nội đâu? Lính thủ đô rút về phía sau sân khấu, xếp hàng lối cho có trật tự.

- Hà Tây quê lụa đâu, tập trung sát cánh quân Hà nội, phía bên phải hậu trường.

Đám lính tập hợp theo địa phương, anh nọ gọi anh kia, ồn ào hơn chợ vỡ. Đội phó đoàn văn công khoa chân múa tay với tốp nhạc công, chắc hẳn để thương lượng trước một cuộc lao động căng thẳng. Rồi sau đó, người ta thấy kẻ ôm đàn phong cầm, người cầm ghi-ta hay măng-đô-lin, người mang sáo mang tiêu lần lượt tản

vào các nhóm lẻ. Cảnh tượng đó đem lại một sắc thái tưng bừng kì lạ cho khu rừng, vốn bình thường chỉ có tiếng gió rung cây, tiếng mưa bẻ lá, tiếng lính trò chuyện hay cãi lộn, hoặc tiếng bom dội.

Đại đội trưởng An đứng bần thần nhìn đám đông vui vẻ ấy, chợt ai đó vỗ vai anh:

- Cậu không tìm được đồng hương Lạng sơn ở đây sao?

Tiểu đoàn trưởng đã đứng sát lưng An, tủm tỉm cười sau cặp kính cận dày như trôn chén.

- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, ở đây tôi đơn thương độc mã .

- Bên tiểu đoàn hai cũng có mấy anh Tày mà?

- Báo cáo, họ là dân Tày Cao-Bằng, sát biên giới. Tôi chưa bao giờ đặt chân lên đất họ mà họ cũng chưa bao giờ xuống Lạng sơn, để thăm vùng Đồng Mỏ quê tôi.

- Ra thế. Cùng là dân Tày cả mà thông thổ khác nhau, tập tục cũng khác nhau. Nhưng tôi là dân Kinh, tôi không thể phân biệt được ai là Tày Lạng sơn, ai là Tày Cao bằng. Tôi thấy các đồng chí đều có những nét tương tự.

- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, sự khác biệt không nhiều. Nhưng vì các hội đồng hương được chỉ đạo theo đơn vị tỉnh nên chúng tôi không có lý do thành lập hội người Tày trong đơn vị.

- Nguyên tắc ấy là chính xác. Bởi chúng ta không thể cho phép sự phân biệt tồn tại giữa các dân tộc trong lòng một đất nước, giữa những con người cùng mang chung một quốc tịch Việt nam.

- Vâng. Tôi hiểu.

Tiểu đoàn trưởng Nhã rút thuốc lá mời anh, và họ cùng phì phèo nhả khói. Phía sân khấu, trợ lý sư đoàn trưởng đang đứng ngó nghiếng bốn phía, tay cầm loa phóng tay, tay cầm sổ. Đúng khoảnh khắc thuận tiện, khi các bài hát tạm ngừng, anh ta giương loa lên gào:

- Alô, alô....Xin các đồng chí chú ý. Chương trình biểu diễn sẽ lui lại một giờ rưỡi, có nghĩa là sân khấu sẽ mở màn vào lúc tám giờ rưỡi vì lý do đột xuất: Chúng ta phải chờ tiểu đoàn 209 vừa được bổ sung từ miền Bắc vào, đang đóng quân bên kia núi Gấu trúc. Họ không trực thuộc sư đoàn chúng ta mà tác chiến độc lập. Tuy nhiên, vì cùng một chiến trường chúng ta có nghĩa vụ chờ đợi anh em để thưởng thức chương trình văn nghệ đêm nay. Trong lúc chờ đợi, đoàn văn công sẽ tiếp tục biểu diễn lẻ theo yêu cầu của các hội đồng hương kết hợp với sự tham gia của các cây văn nghệ trong đơn vị.

Nghe tới đó, lính tráng nhảy cỡn lên, hò hét vang rừng núi:

- Hoan hô....Hoan hô....

- Ban chỉ huy sư đoàn cứ cho hoãn đến nửa đêm cũng được. Hoãn càng lâu càng tốt.

- Đêm nay sẽ là đêm tuyệt vời nhất từ ba năm nay. Ai có bài tủ thì dọn giọng sẵn đi. Chúng ta sẽ có đàn đệm và cây nhà lá vườn sẽ được dịp trổ tài.

Tiểu đoàn trưởng Nhã hỏi An:

- Đồng chí có biết hát không?

- Dạ, tôi hoàn toàn ngu dốt trong lĩnh vực này.

- Tôi cũng thế. Chúng ta có thể tranh thủ ngả lưng cho đến lúc sân khấu mở màn. Ít nhất cũng còn hai tiếng rưỡi.

Chính lúc đó, sư đoàn trưởng tiến về phía họ, oang oang cảnh báo:

- Trông điệu bộ các cậu, tôi ngờ rằng các cậu sắp chuồn khỏi đây. Mấy khi được dịp vui mà bỏ phí hoài?

- Báo cáo sư trưởng, tôi vốn không biết hát, mà tuổi cũng đã ngót nghét ngũ tuần, xương sống hơi bị yếu.

- Vậy tôi trẻ hơn đồng chí hay sao?

Sư trưởng vặn lại . Quả tình, sư trưởng hơn tiểu đoàn trưởng Nhã dăm tuổi nhưng vốn gốc gác dân chài, năng lượng trong ông còn rất dồi dào. Dẫu chiến tranh và năm tháng tàn phá, ông vẫn giữ được những bắp thịt săn chắc. Vai ông ngang và rộng nhưng vì thiếu chiều cao, thân hình ông gần như một khối vuông. Khi ông đi cạnh tiểu đoàn trưởng, đám lính có chữ thường ví ông với anh hầu Sân-xô trong khi vai Đon-ky-sốt được dành cho người hạ cấp. Sư trưởng không lấy thế làm mếch lòng, thường giả miếng rằng:

"Người ta bảo nhất là sắc tướng, nhị là khí tướng, tam là thanh tướng, tứ mới tới hình tướng. Cậu hơn tớ ở cấp độ thứ bốn nhưng tớ lại hơn cậu ở cấp độ thứ ba. Thế nên tớ mới cầm đầu sư còn cậu thì cầm thằng tiểu."

Về mặt thanh tướng, rõ là chẳng ai dám vượt mặt ông. Không chỉ trong sư đoàn mà khắp chiến trường nơi bốn sư đoàn đang quần thảo, giọng nói của ông không ai lẫn được. Giá là danh ca ắt ông phải rung vỡ vô số tấm kính nhà hát. Giọng ông vang như lệnh, thứ giọng đào luyện nhiều đời của những kẻ quen hét thi với sóng. Chỉ cần nghe ông cất tiếng, người ta hiểu ông đang còn là bậc " Chân cứng đá mềm". Vì thế, tiểu đoàn trưởng không ngần ngại đáp lời:

- Ồ, đồng chí già dẻo già dai, không phải loại cua ọp như tôi.

Sư trưởng đành chịu thua:

- Thôi tôi giơ tay hàng các cậu.

Tiểu đoàn trưởng tiếp tục trêu cợt:

- Đồng chí hùng mạnh nên chịu khó ở lại hát thi với đám lính trẻ. Tha cho bọn xương dòn thịt nhão là chúng tôi đây.

Nói rồi ông kéo An đi. Nhưng trong khi ông trở về hầm kiếm giấc ngủ, anh lẳng lặng ra suối tắm. Con suối mênh mông này đẹp hơn cả dòng suối quê anh. Gọi là suối nhưng nó rộng dài đâu kém một dòng sông, và chính nó cũng đổ vào con sông lớn nhất trong vùng. Nước suối trong như thuỷ tinh, không có màu rêu hay màu rỉ đồng như các con suối độc. Các tảng đá sạch bóng, tha hồ ngả lưng nằm hoặc phơi quần áo vào những trưa khô ráo dòn dã mặt trời. Hai bờ suối thoai thoải rải đầy cuội trắng. Đi ngược lên non trăm thước là thác Voi gầm, nước xả từ độ cao hơn chục mét khiến quãng suối bên dưới sôi sùng sục và tất thảy những vật bị cuốn theo dòng nước đều trở thành vũ khí có thể làm thương tổn những kẻ ngu ngốc hoặc vô tình mon men đến tắm dưới chân thác. Nhiều lần, đám lính trẻ tinh nghịch bẻ cành khô ném xuống. Những cành củi này lập tức bị dòng nước lôi vun vút, biến thành một thứ mũi tên có thể đâm chết bất cứ con dê dại dột nào dám liều mạng lội qua. Mỗi lần tới đây, lòng hồi nhớ quê hương lại thiêu đốt trái tim An. Anh trút bỏ quần áo, định lội xuống tắm. Nhưng khi làn nước trong suốt, lăn tăn bọt dâng lên trên gối, anh đột nhiên rùng mình quay lên bờ, mặc lại áo quần. Sự ngăn cản của một bóng ma khiến anh làm những cử chỉ kì quặc như vậy? Sự khôn ngoan của linh giác đưa đường? Anh không biết? Người ta không thể hiểu hết mọi hành vi của mình trong suốt cuộc đời. Nhưng lần này, anh biết chắc chắn một sức mạnh vô hình đã xui khiến anh hành động.

" Là em, chính là em? Hay là cô Nhỏ? Đích thị một trong hai nàng đã giơ tay ngăn cản bước chân tôi. "

Anh cất tiếng thầm hỏi.

Nhưng chỉ có tiếng lá rì rào trong gió, và tiếng hát từ phía sau bờ cây vẳng đến. Thứ âm nhạc vi vút đó phả vào lưng anh một hơi lạnh mơ hồ.

An khoanh tay lên gối, lắng nghe tiếng thác gầm réo phía thượng nguồn. Như mọi ngày, tiếng thác réo gọi về tiếng đổ của một con thác khác. Một con thác nhỏ bé hơn, dịu dàng hơn, với bề cao không quá ba thước, không đe doạ ai, không hứa hẹn làm thương tổn hay chết chóc một ai, chỉ đơn thuần đem lại vẻ đẹp cho rừng núi. Con thác đó có tên là Sơn Ca ; bởi sơn ca làm tổ trong các khu rừng hai bên và tiếng hót của chúng như khúc nhạc bất tận vang trong không gian tĩnh lặng của núi non. Từ thác Sơn ca vượt qua một cánh rừng thưa và một thung lũng là bản Xíu, nơi chôn rau cắt rốn của anh. Nơi trái tim anh ở lại trong khi đôi chân anh càng ngày càng rời xa, không biết đến bao giờ mới tới ngày quay gót.

" Nhưng quay lại để gặp ai bây giờ nếu còn có ngày ấy? Hai người thân nhất với ta đã nằm dưới đất đen. Chú thím ta lúc này chắc cũng đã qua đời, em Mai lấy chồng nơi tỉnh khác. Chỉ còn lại một người già. Nhưng rồi ông ấy cũng sẽ phải ra đi theo tiên tổ ! "

Ngày anh lên đường, ông bố vợ sáu mươi chín tuổi. Mười hai năm đã qua. Giờ nếu còn sống, không chắc ông vác nổi bó củi từ dưới gầm sàn lên bếp.

" Ta có còn ai ở nơi ấy nữa, khi ông cụ qua đời? "

Nhiều lần, anh thầm nhủ. Nhưng quê hương vẫn là quê hương, một dư âm bất tận theo đuổi suốt cuộc đời. Tưởng chừng đã quên, hoặc cố tình quên nhưng bất thần nó quay lại lúc nào ta không biết. Một cành cây gẫy trước mặt, một hòn đá lở ven bờ suối, tiếng hót trong lèn đá của lũ sơn ca...Mọi duyên cớ cỏn con đều khiến nó bị triệu hồi và khiến tim ta nức nở. Đôi khi bừng mắt dậy, trong căn hầm tối đen, An lại nhìn thấy sườn núi rực nắng chiều, nơi bóng áo chàm của nàng xuất hiện. Nàng bước về phía anh, bởi hai nhà cách nhau một sườn núi, đứng bên này có thể nhìn thấy bên kia. Khi nàng đi một mình, khi nàng dắt theo cô Nhỏ, đứa em kém nàng chín tuổi. Tuy là hai chị em nhưng họ gần giống như hai mẹ con vì nàng phải nuôi em từ lúc nó mới lọt lòng. Ngày đứa em gái ra đời cũng là ngày mẹ nàng rời cõi thế. Hai chị em, một người sinh vào mùa đông nên được đặt tên là nàng Đông, một người ra đời vào mùa xuân nên mang tên nàng Xuân. Trong trí nhớ của An, họ luôn luôn xuất hiện trong ánh nắng vàng rực của sườn non, luôn luôn tiến lại phía anh trong vẻ đẹp lộng lẫy mà họ thừa kế của người mẹ đã khuất. An nhìn thấy những hàng mi đen nháy của họ khép lại khi cười, ánh sáng trong vắt rọi lên từ những cặp mắt bồ câu. Anh nhìn thấy khoé môi đỏ thắm màu hoa chuối rừng. Những chiếc vòng bạc xô lanh canh trên cổ tay trắng nõn của họ. Trong cái bản nhỏ xíu mang tên Xíu, trời đã ban tặng cho hai người con gái ấy thứ nhan sắc phi phàm để rối số phận đổi lại bằng những nỗi bất hạnh cũng phi phàm như nhan sắc của họ.

" Các em có làm gì xấu xa đâu?

Các em không làm hại một con chim huống chi nói đến con người !

Cớ sao trời nỡ bắt các em chịu tai ương như vậy? "

Tâm hồn anh không ngừng gào thét. Đại đội trưởng An không tin có trời. Anh cất tiếng gọi trời như thói quen, như tất thảy mọi người thường cất tiếng kêu trong cơn tai hoạ nhưng óc não anh ghi khắc đinh ninh gương mặt những kẻ sát nhân bằng xương bằng thịt.

" Có thể chúng quá mạnh mà ta thân côi thế cút nên kiếp này ta sẽ phải nuốt hận bước xuống mồ. Nếu vậy ta sẽ tiếp tục cuộc truy đuổi vào kiếp sau. Nếu kiếp sau chưa đủ, ta sẽ xin trời cho ta thêm một kiếp nữa. Ta sẽ đi đến tận cùng địa ngục để tìm những kẻ đã giết nàng và cô Nhỏ của chúng ta."

Phía sau bờ cây, ồn ào tiếng các đoàn quân đổ tới. Cửa rừng hẹp nên khi các đơn vị chen lấn một cách vội vã, mọi thứ tiếng động đều dội đi bốn phía và các hồi âm cũng ném trả từ bốn phía vách núi lẫn rừng cây. An biết rằng tiểu đoàn 209 từ bên kia núi Gấu trúc đã sang và giờ biểu diễn sắp tới. Anh đứng dậy, quay lại trảng. Nắng đã tắt từ lâu. Rừng đen thẫm vây bốn bề khiến trảng cỏ trở nên lung linh dưới ánh đèn như nơi chốn nào đó trong thần thoại. Dưới những tấm bạt khổng lồ can nối lại thành một mái nhà mênh mông để bảo đảm an toàn cho cuộc biểu diễn, những ngọn đèn lớn sáng rực. Chiếc máy nổ hai mươi nhăm ngựa của sư đoàn đặt không đủ xa sân khấu khiến tiếng nổ của nó vọng lại, chen lẫn tiếng đàn sáo và tiếng hát. Đám lính mới tới đã tập hợp ở một góc, chờ lệnh, anh nào anh nấy mặt nhễ nhại mồ hôi và hớn hở như trẻ được quà. Các tốp văn công thu quân, tập trung về phía sau cánh gà. Lính tráng rời các hội đồng hương lại tập hợp theo phiên chế. Tiếng còi, tiếng gọi nhau í ới vang khắp nơi.

Tiểu đoàn trưởng Nhã có vẻ tươi tỉnh hơn sau giấc ngủ dặm đã quay lại điều hành lính tráng. An nhìn cảnh tượng một cách ngỡ ngàng. Anh còn đang bị dằng kéo bởi những kỉ niệm. Anh cảm thấy mình đang còn đứng ngoài cuộc vui. Tựa lưng vào một gốc cây, anh đưa mắt nhìn về phía sân khấu, trong khi những tốp lính của đơn vị 209 vẫn tiếp tục từ phía sau vượt lên để chiếm lĩnh khoảnh đất dành cho họ.

- Chí văn Thành ! Chí văn Thành !

Một tiếng gọi đột ngột vang lên bên tai khiến An giật nảy người. Anh quay đầu lại một cách vô thức và khi chợt hiểu điều đó là sai lầm thì một gã trai đã tiến đến sát mặt anh:

- Anh Chí văn Thành !

- !...

- Thành ! Anh không nhận ra em sao?

Một gương mặt nhoẻn cười trong bóng tối. An tì lưng vào thân cây, toàn thân run như bị điện giật:

- Đồng chí nhầm. Tôi là Hoàng An.

- Anh Chí văn Thành. Mã Lỳ đây. Em là Mã Lỳ.Anh quên em rồi sao?

- Tôi là Hoàng An.

- Ồ...

Người mới tới quay ngược cây đèn pin để rọi sáng vào chính mặt anh ta.

Gương mặt nhễ nhại mồ hôi bầu bầu theo kiểu mặt đàn bà. Đôi mày vừa ngắn vừa xếch và cặp mắt lá dăm nhỏ nhưng rất sâu nheo lại trong nụ cười. Một chiếc mũi ngắn, lộ thiên. Hai hàm răng nhỏ như răng con nít, có chiếc răng nanh bên trái bịt bạc. An rùng mình. Không còn từ chối được nữa. Đó chính là người đồng đội cũ, Mã Lỳ, dân Mèo, tiểu đội phó tiểu đội một trong trung đội năm xưa anh từng là trung đội trưởng. Chính anh đã đề bạt cậu ta vào chức vụ này. An nắm chặt cánh tay Mã Lỳ, kéo lại gần:

-Giờ tôi đã đổi tên thành Hoàng An. Tôi cấm cậu gọi tôi bằng tên cũ.

Anh buông từng lời, gần như thì thầm.

- A !... Em hiểu. Em hiểu.

Gã trai gật đầu lia lịa.

An nói tiếp:

- Cậu vào xem đi. Lát nữa chúng ta sẽ hàn huyên.

Mã Lỳ dặn:

- Nhớ đấy. Lâu quá chúng ta chẳng gặp nhau.

An gật đầu:

- Các cậu ở đây bao lâu?

Anh chàng Mèo lắc đầu oai oái:

- Chỉ có trời mới biết. Nhưng tiểu đoàn trưởng báo rằng có thể bọn em còn găm quân ở đây khá lâu để tập luyện trong khi chờ sát nhập vào một sư đoàn thiếu ở chiến trường miền tây. Chưa biết chừng là dăm bảy tháng.

- Vậy còn có nhiều dịp gặp mặt. Bọn tôi vẫn thường qua núi bên ấy.

- Tốt. Thế nào anh em mình cũng phải gặp nhau. Em đi đây.

Cậu ta chạy theo đồng đội. Tích tắc sau, tất cả chỉ còn là một đám đông chuyển động nhập nhoạng hoà với cây rừng, một khối đen bất khả phân biệt. An sực nhớ ra điều gì đó, tức khắc vùng chạy theo Mã Lỳ:

- Mã Lỳ, Mã Lỳ !

- Đợi tôi với, Mã Lỳ !

Anh xô đám lính 209 sang hai bên bờ cây, đuổi theo người đồng đội cũ.

- Mã Lỳ !

- Em đây.

Anh nghe tiếng đáp trả vọng từ đám đông phía trước. Mã Lỳ dừng lại, tách khỏi hàng quân đứng sang mép lối đi để chờ anh. Chẳng bao lâu, họ tìm thấy nhau. Cùng là dân miền núi, rừng cây làm thành một phần đời của họ. Đuổi bắt nhau trong cảnh tối tăm này chẳng phải là điều quá khó đối với An. Khi chợt đến, An thấy Mã Lỳ đang đứng với một người khác nên anh nép mình sau một gốc cây, chờ. Trong bóng đêm, nghe anh chàng Mèo nói:

- Bọn tôi là đồng đội cũ...cậu cứ đi trước rồi lát nữa tôi tìm. Chúng ta sẽ tập hợp theo đơn vị sau giờ biểu diễn.

- Nhất trí.

- Đưa cây đèn pin của cậu cho tôi mượn ; đèn tôi sắp hết pin.

- Dè sẻn thôi đấy. Đường còn dài.

- Được rồi.

Gã trai kia chạy vụt đi. An còn dừng lại vài giây trong bóng tối rồi mới đi tới trước mặt Mã Lỳ:

- Chúng ta cùng nhau xem. Tôi có nhiều điều muốn hỏi cậu.

- Đồng ý.

Họ cùng nhau nhập vào cánh quân 209 để tiến đến sân khấu. Vì là khách, lính 209 được chia nửa phần đất bên trái khiến quân nhà xôn xao ghen tị. Quả là đứng bên trái nhìn lên sân khấu rõ hơn, và tiếng máy nổ nghe nhỏ hơn. An cùng Mã Lỳ ngồi xuống, anh liếc đồng hồ, nói:

- Tôi chỉ được xem đến chín giờ mười lăm. Sau đó phải đổi gác.

- Chính anh phải đảm nhiệm sao?

- Đại đội tôi đảm nhiệm. Là đại đội trưởng tôi không có quyền ngồi xem khi bọn lính trẻ hơn phải bỏ sân khấu đi tuần.

- Anh luôn luôn là cán bộ gương mẫu. Em chưa quên điều ấy. Kể từ ..ngày chúng ta mới làm quen.

- Chẳng cứ tôi, ở sư đoàn này cán bộ nào cũng xử như vậy.

Gã trai Mèo im lặng một lát rồi hỏi:

- Ở đây đất dữ lắm a? Em nghe phổ biến đây đã là vùng sâu của quân ta, tựa hồ như an toàn khu thuở trước?

An cười:

- Đây đúng là vùng sâu của chiến trường. Nhưng không thiếu thám báo địch. Bởi thế ba năm chờ đợi mới có một buổi liên hoan mà lính vẫn phải cắt nhau đi tuần.

- Bọn nó dám luồn vào tận đây sao?

- Cậu đùa? Đây không phải thao trường Hà Tây mười hai năm trước. Bây giờ đang là chiến tranh. Cậu tưởng bọn chúng toàn là đồ bị thịt hay búp-bê gỗ chắc?

Mã Lỳ lặng thinh một lát rồi hỏi:

- Ngần ấy năm anh mới lên đại đội?

- Cậu quên là tôi bị rượt đuổi phải thay họ đổi tên hay sao? Còn cậu?

- Em bây giờ cũng đại đội trưởng rồi. Cấp trên nói nếu tình hình tiến triển tốt, quý sau em sẽ được thăng vượt cấp. Người Mèo đặc biệt trung thành với cách mạng và dũng cảm trong chiến đấu.

- Chúc mừng cậu...

- Ồ....Ồ....Gái đã ra kìa...

Mã Lỳ cất tiếng, chỉ lên sân khấu.

Quả nhiên hai cánh màn lụa đỏ đã mở ra, cô gái giới thiệu chương trình tiến đến trước micro cúi chào yểu điệu. Áo dài tứ thân xanh đổi vai hồng vai tím, váy lụa mỡ gà, một vẻ đẹp bị lãng quên, một mẩu đời bình yên bị ngăn cách chợt hiển hiện khiến lính vỗ tay như rồ như dại. Rồi tiếng nhạc cất lên, vang lừng, nao nức. Cả sư đoàn đã chờ đợi bao lâu giờ phút hạnh phúc này ! Nhưng đại đội trưởng An không còn nghe thấy gì, không còn nhìn thấy gì ngoài gương mặt bóng nhẫy mồ hôi của người đồng đội cũ. Mã Lỳ hoàn toàn chú tâm vào cô gái dẫn chương trình, đôi mắt nhỏ của cậu ta như mờ đi, môi dưới trễ xuống khiến cái miệng há hốc ra một cách vô tình và bất khả kiểm soát:

" Cậu ta sẽ hành động ra sao? Cậu ta sẽ lặng im vì tình bạn, vì chính ta là người đầu tiên giúp cậu ta hiểu những điều sơ đẳng nhất trong cuộc sống miền xuôi, cũng là người đề bạt cậu ta và giúp cậu ta tiền về quê làm ma cho ông bố. Hoặc cậu ta sẽ tố cáo ta để bày tỏ lòng trung thành với thượng cấp và được cất nhắc một cách đặc biệt hơn? Nào ai biết được đường đi ngoắt ngoéo của con người?"

Mười hai năm đã qua nhưng gã trai này dường như không thay đổi. Cậu ta không già đi bao nhiêu vì nước da trơn nhẵn. Nhưng cặp mắt nhỏ và sâu kia thì khôn dò nổi. Hoàng An im lặng theo rõi Mã Lỳ. Gã trai Mèo chắc đang khốn khổ vì thèm đàn bà. Hai mắt gã ướt rượt. Gã thở hổn hển và thè lưỡi liếm môi liên tục. Những người dâm đãng, đàn ông cũng như đàn bà không thể cưỡng chế cử chỉ này. Đó là một trong những dấu hiệu khiến người ta nhận ra họ một cách mau lẹ. An nhớ hồi ở đơn vị cũ, Mã Lỳ đã khổ sở ra sao khi kiếm đàn bà. Và mặc dù là dân Mèo thuần tuý, chân ướt chân ráo xuống miền xuôi, gã cũng đủ ranh ma để tìm một cô gái dở người trong vùng, nhằm giải quyết những nhu cầu cấp bách. Giờ thì cậu ta đang há hốc mồm nhìn các nàng tiên áo xống xênh sang trong điệu Múa Đèn:

- Cậu thấy thế nào? Hay hơn hay tồi hơn Múa Nón của người Thái?

An cất tiếng hỏi .

- Hay hơn, hay hơn rất nhiều lần.

Mã Lỳ đáp, mắt không rời sân khấu.

- Cậu có thích điệu múa khèn của dân Mèo hay không?

- Không.

Mã Lỳ đáp gọn lỏn khiến anh ngạc nhiên. Dường như hiểu sự ngạc nhiên đó, gã Mèo giải thích:

- Dân Mèo múa không hay. Múa hay nhất chính là các dân tộc Tây nguyên. Bất kể là Ê-đê, Ba-na hay ai khác.

Tới đó, Mã Lỳ chợt cất tiếng kêu:

- Ô, đã hết rồi.

Và cậu ta tắc lưỡi lắc đầu một cách tiếc rẻ. Hoàng An cười:

- Tôi không ngờ cậu mê văn nghệ đến thế.

- Anh khinh người Mèo không biết thưởng thức văn nghệ hay sao?...

- Không nên nói thế. Đây là sở thích của từng cá nhân, không liên quan gì đến sắc tộc. Bản tôi toàn dân Tày nhưng có người mê thổi sáo, có thể thức thổi sáo cả đêm trong lúc người khác chỉ uống rượu rồi vùi đầu ngủ.

- Em mê văn nghệ.

Mã Lỳ đáp. Rồi sau một phút chần chừ, nói thêm:

- Nhưng chỉ những tiết mục văn nghệ do con gái làm thôi. Em không thích nhìn bọn đàn ông hát múa.

Tới đó, màn lại mở. An lặng im vì không muốn làm phiền gã Mèo. Dường như toàn bộ tâm trí của cậu ta đang quay đảo dưới ánh đèn sân khấu. Như thế, thời khắc dần trôi, tới chín giờ mười lăm. Anh giơ đồng hồ lên xem rồi bảo Mã Lỳ:

- Đã tới giờ đổi gác. Tôi đi đây.

- Vâng. Rồi chúng ta sẽ gặp nhau.

- Đồng ý. Sau giờ biểu diễn cậu rán chờ tôi nhé.

- Yên tâm. Em sẽ chờ anh.

Hoàng An rút lui về phía sau. Khi đã hoàn toàn ra khỏi đám đông, anh vào sâu trong bìa rừng, chọn một góc thuận tiện để có thể thu mình trong bóng đêm quan sát. Trước mắt anh là một khối đen mênh mông, Mã Lỳ đã mất hút trong đó. Cậu ta vốn nhỏ con, giống số đông đàn ông Mèo, bao giờ cũng chỉ cao ngang vai vợ. Người ta bảo một cặp Mèo ôm nhau giống hệt con chẫu chàng ôm quả dưa ếch là vì thế. Màn đóng rồi màn mở, các tiết mục nối tiếp nhau. Đồng hồ chỉ mười giờ kém hai mươi phút. Như thế đã hai mươi lăm phút trôi qua không xảy ra chuyện gì. An cảm thấy hơi thở của anh bắt đầu trở lại nhẹ nhõm:

" Có lẽ cậu ta không đủ tàn ác để làm điều ấy. Có lẽ cậu ta chưa quên những kỉ niệm tốt đẹp của một thời. "

Nhưng chính lúc niềm lạc quan khởi sự, một bóng người nhỏ bé lom khom đã đứng lên, tách khỏi khối khán giả đông đặc và đen ngòm. Cái bóng đó lách giữa hai cánh quân, với dáng đi lom khom tiếp tục tiến về khán đài phía trước, nơi ban chỉ huy sư đoàn cùng ngồi với ban lãnh đạo tiểu đoàn 209 trên một tấm bạt trải đến tận chân sàn diễn.

Tức khắc, đại đội trưởng An dập tắt niềm lạc quan mong manh vừa chợt nhú như tay đồ tể lành nghề chọc một nhát dao chính xác trăm phần trăm vào cổ lợn:

" Ra thế. Điều ta nghi ngờ là không tránh khỏi. "

An nghĩ, với một chút cay đắng, một chút buồn rầu nhưng cùng lúc đó, trái tim anh không còn phập phồng nữa, nhịp đập của nó trở lại bình thường. Sự hồ nghi và nỗi chờ đợi mong manh bị thiêu cháy. Trạng thái lạnh lùng băng giá xâm chiếm tâm hồn, óc não anh trở nên trống rỗng và trong suốt:

" Việc ắt phải xảy đã xảy ra. Giờ không còn đắn đo, chỉ còn hành động. Ta không muốn tình cảnh này nhưng nó đã tới. Vậy ta sẵn lòng chào đón. "

Anh đưa tay rờ cây tiểu liên cưa nòng bên hông như kiểu nông phu rờ lưng con trâu trước khi bước xuống rạch cày, như gã xà-ích vuốt bờm ngựa trước giờ cho xe chạy. Động tác ấy đã quen thuộc từ thuở mười ba, tuổi bắt đầu theo ông chú lên rừng săn thú. Khi những ngón tay An chạm vào thớ thép lạnh ngắt đó, một luồng xúc động mãnh liệt truyền ngược lại da thịt, lan toả khắp toàn thân và xuyên thấu lên tận óc não anh, đem lại cùng một lần sức mạnh, niềm tin, và ý chí sắt đá. Hơi lạnh của vũ khí truyền cho anh ngọn lửa. Chạm vào nó, giống như người xưa chạm vào hòn đá ước, anh thấy bình tâm, ví như kẻ lữ hành mùa đông bình tâm khi được ngồi dưới mái nhà và được hơ tay lên lửa sưởi. Đối với An, vũ khí tựa hồ con ngựa chiến hoặc con chó săn trung thành. Nó chẳng còn là vật vô tri mà trở thành một phần cơ thể và ý chí. Đời anh là một cuộc tôi luyện trường kì để thứ thép lạnh ngắt đó trở nên một vật có linh hồn.

Trong bóng tối, đại đội trưởng khẽ nhếch mép cười:

" Ta không muốn !Ta không muốn chút nào cuộc săn này. Nhưng chính vì bị săn đuổi, ta đành phải trở thành kẻ đi săn đuổi. "

Anh nhìn thấy Mã Lỳ ngồi thụp xuống, lẫn vào đám cán bộ lãnh đạo. Hẳn đây chính là lúc cậu ta tường trình sự việc một cách vắn tắt và đề nghị sư trưởng đi theo mình vì một " ...bí mật quân sự có tầm quan trọng quốc gia. " An thầm đoán. Quả nhiên, một phút sau, Mã Lỳ đứng lên cùng sư trưởng, cả hai men theo bục sàn diễn để vòng ra phía sau. An ước lượng:

" Hai người vừa xoẳn cao bằng nhau. Nhưng sư trưởng to gấp ba lần gã Mèo còi cọc. Cánh tay ông ta hẳn phải xuýt xoát bằng cẳng chân của gã. "

An không hiểu họ sẽ đi đâu? Nếu họ lùi ra phía sau sân khấu, sẽ vô cùng bất tiện cho anh vì tổ lính kĩ thuật đang chạy máy nổ ở đó. Nhưng có lẽ giả thuyết này là sai vì một câu chuyện trọng đại không thể thổ lộ ở nơi tiếng nổ ầm ầm và cả tốp người tò mò có thể nhìn nghiêng nhìn ngó. Họ sẽ lùi sâu vào các đám rừng xung quanh chăng? Nếu vậy, có khả năng đụng độ tốp lính đi tuần. Hoặc chính họ, hoặc chính anh và cuộc xử trí sẽ khó khăn. Tuy nhiên, sư trưởng vốn là người có tật nói rất to, ông ta sẽ phải dẫn gã Mèo đen ra bờ suối, đó là nơi tiếng nói của ông sẽ bị cuốn trong tiếng thác gào và không thể lọt vào lỗ tai bất cứ ai. Và, thật may mắn, đó cũng chính là nơi thuận tiện nhất cho việc xử trí vì bên kia suối là vùng núi chết. Từ bờ suối , chỉ đi qua một bãi sỏi hẹp như dải áo là tới các tường đá dựng thẳng đứng như lưỡi gươm, trên bức tường thành vĩ đại ấy, không một cọng gai nào có thể trồi lên được. Vì thế, không chỉ con người mà đến lũ sơn dương cũng không dám trèo lên . Chẳng phải lính bắc việt mà chính thám báo phía nam đã đặt tên nơi đó là Vùng Núi chết.

An luồn sau các thân cây để theo rõi đường đi của hai con mồi. Quả nhiên, sư trưởng dẫn gã Mèo ra bờ suối. Đoạn đường khá dài để tiếng nhạc mờ dần đi và tiếng thác réo vang dần lên. Cây đèn pin của sư trưởng bịt vải dù, chỉ vẩy ra một tia sáng bằng trái mận. Đèn của gã Mèo rọi sáng nhiều hơn, quét đi quét lại không ngừng trên lối đi. Giống như một con báo, An bước theo họ. Anh không nhận ra rằng gió đã đổi chiều thổi lật nghiêng các vòm lá khiến rừng xao động và tiếng bước chân của các con mồi cũng như kẻ săn mồi đều chìm nghỉm trong tiếng lá reo. Chừng mươi phút, họ tới đúng bãi tắm ; gần như chính xác nơi An vừa ngồi lúc tàn chiều. Một ý nghĩ thoáng qua, ngắn như tia chớp:

" Phải chăng vài giờ trước, ta không muốn tắm trên dòng suối này vì cuộc xử trí ắt phải xảy ra chính nơi đây? "

Nhưng anh không kịp suy ngẫm thêm vì cuộc đối thoại đã cất lên, rành rẽ từng lời, từng tiếng:

- Thưa sư trưởng, người Mèo chúng tôi vốn tuyệt đối trung thành với cách mạng nên tôi cho rằng tôi có nghĩa vụ báo cáo với đồng chí sự việc này. Một sự việc vô cùng nghiêm trọng.

Mã Lỳ cất tiếng, run rẩy. Có lẽ gã hồi hộp. Có lẽ gã đang dùng dằng giữa nỗi sợ hãi bản thân và nỗi sợ hãi " lương tâm của một kẻ trung thành với đảng và chính quyền "...Hoặc gã đang phân vân giữa nỗi sợ hãi chính anh, kẻ đã thoát khỏi lưới vây của cả một đội quân, con người đáng gờm ; với lòng khao khát quyền lực. Hoặc gã cảm thấy một sự nguy hiểm nào đó ẩn giấu trong cuộc chơi này, giống như một tay thợ săn cảm thấy khí núi bốc lên hơi thở của tử thần khi rẽ vào ngả đường mà sau đó vài khoảnh khắc, anh ta sẽ biến thành con mồi bị nghiền nát giữa hai hàm răng cọp? An không thể xác định duyên cớ, nhưng anh nghe rõ từng tiếng run rẩy thốt ra và hơi thở ngắt quãng của Mã Lỳ.

" Đồ chó ghẻ ...Quân vừa đéo vừa run... "

Trong thâm tâm, anh buông một tiếng chửi thề khinh bỉ.

Lúc đó, giọng sư trưởng cất lên, đĩnh đạc:

- Tất thảy chúng ta đều có nghĩa vụ trung thành với cách mạng. Đồng chí xác định tư tưởng rõ ràng như vậy là rất tốt. Tôi chờ nghe đồng chí đây.

- Thưa sư trưởng....

Mã Lỳ nói, không còn quá run rẩy sau khi được khích lệ. Tuy nhiên gã Mèo vẫn phải nuốt nước bọt mấy lần để dọn giọng, trước khi tiếp lời:

- Thưa sư trưởng, phải chăng trong sư đoàn ta có đại đội trưởng Hoàng An, người Tày Cao Bằng đang chiến đấu dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí?

- Đúng !

Sư trưởng khẳng định tức khắc và sau đó tiếp tục nói với cái giọng bất khả điều chỉnh cường độ của ông:

- Đại đội trưởng Hoàng An là người chỉ huy gan dạ, mưu trí và có rất nhiều triển vọng, có thể nói đó là cánh tay phải của tiểu đoàn trưởng Đinh quang Nhã..Nhưng quê đồng chí ấy ở Đồng Mỏ Lạng sơn chứ không phải Cao bằng. Tôi thuộc lý lịch đại đội trưởng An như thuộc tiểu sử cá nhân của các tiểu đoàn trưởng dưới quyền tôi vậy.

- Báo cáo sư trưởng, Hoàng An quê chính ở bản Xíu, huyện Thất khê, Cao bằng. Anh ta từng là trung đội trưởng số ba , thuộc đại đội Một, tiểu đoàn 109 đơn vị đặc nhiệm đóng tại Hà Đông năm I957, lúc đó tôi là tiểu đội phó trong trung đội của anh ta. Tên thực của anh ta là Chí văn Thành, được kết nạp đảng sau ngày nhập ngũ, tháng chín năm I95I, ba năm trước ngày giải phóng thủ đô.

- Đồng chí nói sao? Anh ta đã từng là đảng viên?

An thấy giọng sư trưởng vói cao lên, ngờ vực. Khi nhập vào cánh quân này dưới cái tên Hoàng An, anh đã sử dụng giấy tờ của một tử sĩ đứng ngoài đảng. Và anh vừa được kết nạp hai năm tròn. Chính sư trưởng đã hạ lệnh kết nạp đảng tại chỗ, sau những thành tích chiến đấu dồn dập của đại đội. An lại nghe Mã Lỳ cười khẩy, và sau một khoảnh khắc ngưng lặng, tiếp tục nói:

- Khi tôi nhập ngũ, Chí văn Thành đã sáu tuổi đảng. Anh ta được kết nạp ngay trên chiến khu Việt bắc.

- Thôi được. Đồng chí nói tiếp đi. Tôi nghe.

- Chính Chí văn Thành giác ngộ tôi vào đảng và đề bạt tôi lên tiểu đội phó.

- Rồi sao?

- Rồi đột nhiên anh ta bỏ trốn sau một ngày chủ nhật vào thăm Hà nội. Ban chỉ huy không biết lý do ra lệnh truy tìm nhưng không có kết quả. Khoảng một tuần sau bộ tham mưu cử người xuống chính thức thông báo Chí văn Thành là điệp viên do quân đội nguỵ gài vào để đánh phá lực lượng cách mạng. Do bị lộ anh ta đã bỏ trốn cùng với một tên điệp viên khác, trong đội cảnh vệ. Cả hai đều là Tày Cao bằng và quê cùng huyện Thất khê. Lực lượng biên phòng đã đuổi theo họ, qua tận biên giới Việt-Lào nhưng chỉ tìm thấy xác hai người bị hổ ăn và hai cây súng bỏ lại.

- Nếu đã thẩm định là bị hổ ăn thì làm sao còn quay trở lại sống dưới một cái tên khác? Nhất là khi cả hai cây súng bị ném lại? Đồng chí có tin rằng một người bỏ trốn có thể vứt bỏ vũ khí để dấn thân vào rừng núi với hai bàn tay trắng, khi trước mặt là thú dữ lẫn kẻ thù?

Giọng sư trưởng oang oang như đang thuyết trình kế hoạch tấn công trước giờ mở màn chiến dịch. Anh có cảm giác như ông không tin những điều gã Mèo nói và cố sức dẫn dụ gã sang một ngả đường khác. Mã Lỳ ậm ừ hồi lâu vì không tìm được lời giải thích. Nhưng sau đó, gã cất tiếng một cách quả quyết:

- Tôi biết. Điều đồng chí nói là có lý. Nhưng tôi không thể nhầm bởi chính Chí văn Thành cũng đã nhận ra tôi. Chính anh ta dặn tôi rằng không được gọi anh ta bằng tên cũ, rằng anh ta đã bị truy đuổi, đã thay họ đổi tên và ...

Tiếng hoan hô đột nhiên ào ào vang lên, vượt qua các bờ cây vọng đến tận bờ suối. Tiếng lính huýt còi miệng, tiếng hét cuồng nhiệt vang khắp rừng lẫn trảng:

- Hoan hô, hoan hô....

- Lại....Múa lại....

- Một lần nữa !Hoan hô....Một lần nữa đi !

- Một lần nữa.! Xin múa lại lần nữa.

An chắc chắn đó là điệu múa Chàm rông, điệu múa của mùa xuân, điệu múa của tình ái, hội hè và ước vọng. Anh tưởng tượng ra những gương mặt phấn khích của đám đông dưới ánh đèn. Cùng lúc đó, óc não anh vang lên tiếng thầm thì:

" Sư trưởng ơi, tôi với ông không thù oán, không có kỉ niệm buồn phiền. Ông đối với tôi như một người anh hào hiệp nhưng tôi không có cách xử trí nào khác. Xin ông tha thứ cho tôi."

Anh nhắm vào lưng Mã Lỳ, tiêu điểm cách một gang rưỡi từ vai trái lui xuống. Khẩu súng trong tay anh tựa hồ con quay gỗ hồi thơ bé. Tựa hồ con thoi dệt trong tay bà thím. Tựa hồ cái gương tròn khung bạc trong tay nàng. An nhấn cò. Một tiếng nổ. Chắc chắn qủa tim gã Mèo đen phải vỡ tung. Nhích nòng súng chừng nửa ly sang bên trái, hai phát tiếp theo bởi lần này con mồi to khoẻ gấp bội. Cần găm hai lần đạn vào một quả tim ngoại cỡ. Kết quả sẽ bảo đảm một cách tuyệt đối. Tất thảy xảy ra trong ánh chớp. Hai tấm thân đổ sập gần như đồng thời, cùng hướng.

An gỡ cây súng , đặt xuống gốc cây quen thuộc, nơi anh vẫn ngồi một mình buổi chiều. Chéo khẩu súng là cây đèn pin, bọc kín trong tấm vải dù. Mắt anh đã hoàn toàn thuần thục với bóng tối. Chỉ những gợn nước phản chiếu lửa đom đóm bên kia dòng suối, cùng ánh sáng xanh run rẩy của lân tinh dưới các bụi cây là đủ cho anh soi tìm mọi vật. Sau khi đã cất gọn gàng những đồ lủng củng, An bước tới nơi hai tử thi gần như chồng lên nhau thành một khối. Hai cái xác còn nóng hổi. Trước hết anh lột quần của cả hai một cách thận trọng để máu ở phần trên ngực không dây vào chúng. Vũ khí, đèn pin. Rồi bao thuốc lá, bật lửa, bấm móng tay trong túi áo. Lọ đựng tăm và hộp dầu cù-là. Sổ tay và bút...Tất thảy được gom thành một đống trên cỏ. Sau đấy, anh lột giầy lẫn tất, sắp thành hàng. Ước tính mọi sự chuẩn bị đã tinh tươm, An vác gã Mèo đi ngược lên thác Voi gầm.

Dừng lại thở một vài hơi anh lẳng gã xuống chính ngọn thác, nghe trong đêm tiếng rơi bõm của thây ma, tiếng gào réo của các xoáy nước và nhìn thấy ngọn nước hung dữ cuốn phăng cái vệt đen đen đó đi một cách hăm hở. Quay trở lại, An kéo sư trưởng lên. Ông ta rất nặng. Phải trầy trật lắm anh mới hất được cái xác vạm vỡ, y hệt một bao tải gạo lên lưng. Lần này, anh phải bước lom khom như dân công cõng đạn trèo ngược dốc, rồi bước từng bước một. Nhưng dẫu sao An cũng đến được đỉnh thác mà không phải dừng chân nghỉ một lần nào. Ở đó, An đặt xác chết xuống bờ suối, rút trong túi quần sợi dây dù bất ly thân, tháo nút một cách thận trọng để sợi dây không bị gút rối. Khi đã gỡ được sợi giây một cách hoàn hảo, An buộc một bên chân mình vào gốc cây gần nhất. Rồi, anh thở vài nhịp chậm và sâu để chuẩn bị trước khi thu hết sức lực nâng bổng tử thi lên, ném xuống dòng thác. Tấm thân bất động tròn trùng trục kia rơi xuống tức khắc, kèm theo một tiếng động trầm đục và ngắn ; tựa hồ một thân cổ thụ rớt xuống dòng sâu. Lúc thây ma rơi xuống, An cũng ngã nhào theo, một cánh tay lẫn một bên vai đập vào bờ đá đau điếng. Nếu không có sợi dây bảo mạng kia, chắc chắn anh sẽ trở thành thây ma thứ ba, theo cùng một hành trình với hai kẻ xấu số. Nằm úp mặt xuống bờ suối vài giây cho cơn đau dịu đi, An vùng dậy tháo sợi dây dù, đoạn quay trở lại khúc suối bên dưới. Ở đấy, anh lội xuống dòng nước lạnh buốt, lặn ngụp hồi lâu. Khi ngửi đi ngửi lại, áo quần không còn chút mùi tanh của máu, An trèo lên bãi sỏi lượm cây đèn pin và khẩu súng định bụng trở về hầm. Nhưng chính lúc ngẩng đầu lên, anh chợt nghe tiếng chân chạy, chợt nhìn thấy một bóng đen vụt khuất giữa đám cây đen. Vô cùng mơ hồ, nhưng chắc chắn không phải là một hồn ma. Đó chắc chắn là một sinh thể.

" Có kẻ nào rình rập ta? Bởi chỉ có tiếng chân đơn lẻ . Không thể là tiếng chân đội lính đi tuần ngẫu hứng đến đây. "

Anh tức khắc đuổi theo bóng đen kia.

Nhưng phải chăng nó là một con người?...Anh tự hỏi một cách ngờ vực bởi cái sinh vật gây tiếng động kia cũng có thể là chồn hay cáo. Nó biến đi trong chớp mắt, hoàn toàn mất tăm mất dạng như hoà nhập thành một khối với rừng cây. Tuy nhiên, anh vẫn tiếp tục đuổi theo hướng tiếng động cho đến sát cửa rừng. Tới đó, An buộc phải dừng lại. Dù con mồi kia là người, là ma, hay là chồn cáo anh cũng đành để nó chạy thoát. Nếu không, chính anh cũng có nguy cơ bị bắt gặp trong bộ dạng kẻ sát nhân ướt rượt từ đầu xuống chân.

" Thôi được, tao sẽ tính chuyện với mày sau. "

An nghĩ, quay sang lối trở về hầm. May mắn cho anh vì khu trú quân vắng ngắt. Có lẽ ngay toán lính tuần cũng lượn loanh quanh rồi lại tạt vào trảng, nghếch mắt xem văn công. Trong khu nhà ngầm trung tâm của tiểu đoàn Một, An mắc bộ quần áo ướt vào dàn sấy áo quần. Dàn cây ấy thường xuyên là tủ sấy áo quần cho các sĩ quan, bởi nơi đây, nếu không có lửa quần áo giặt sẽ không bao giờ khô. Hầu như đêm nào cũng có mưa. Những cơn mưa rừng thấm vào quần áo lẫn xương tuỷ. Mưa dứt, hơi sương còn quẩn quanh từ nửa đêm cho đến non trưa. Mặt trời có lên cũng phải vài giờ sau sương mới tan hết. Sương vừa tan được vài giờ chiều đã ngả và lớp sương mới lại ngùn ngụt kéo từ các khe vực lên. Như thế, làm sao áo quần không ẩm mốc. Chẳng có cách nào hơn là phải gây một lò sấy suốt ngày đêm. Những đống củi cháy liu diu không ngừng, không ngừng toả hơi ấm lẫn làn khói đặc ngái mùi các loại nhựa cây bị hun đốt. An đứng ở đó một giây, nhìn đám lửa, cảm thấy buồn nản và dửng dưng. Anh muốn ngủ. Nhưng điều đó là bất khả nên anh lại mặc quần áo mới và quay trở lại trảng, tìm đúng đơn vị của mình, ngồi thu hình phía sau đồng đội một cách lặng lẽ.

Chờ mươi phút trôi qua, anh đặt tay lên vai cậu lính phía trước:

- Thoả mãn chứ?

Gã trai giật bắn người, quay lại nhìn anh:

- Thủ trưởng đi đâu, giờ mới lại đây?

- Thủ trưởng Nhã rủ tôi quay lại hầm ngủ nướng. Không dè quá giấc.

- Ôi chao, mất toi nửa đêm rồi còn gì?

- Đành vậy...Nhưng được dịp béo mắt. Vả chăng, tôi già hơn cậu mươi tuổi, lòng ham hố nhìn gái đẹp cũng phải giảm đi. Điều đó liệu có đúng hay không?

Cậu lính cười hì hì:

- Thủ trưởng hỏi câu ấy, em xin chịu.

- Thôi xem đi, kẻo lỡ dịp vui.

An nói, cắt đứt câu chuyện một cách đột ngột rồi lấy bàn tay bên phải bóp cứng vào huyệt vai bên trái. Lúc này, anh mới thấy thân thể đau nhừ sau một cuộc vận động căng thẳng và quá sức. Hai mí mắt anh bắt đầu cứng lại như chì và có vẻ như chúng không còn tuân theo sự điều khiển của chủ nhân:

" Mình không thể ngủ. Không có quyền ngủ lúc này.Ta vừa mới tuyên bố với mọi người là gỡ được giấc ngủ dặm cùng với tiểu đoàn trưởng. Giờ không còn lý do ngủ thêm. "

Nhưng anh bắt đầu ngáp. Và ngáp thì không thể kiềm chế được. Đại đội trưởng đành móc bao thuốc, đốt một điếu. Mùi khói thuốc vừa lan toả, lập tức năm sáu cái đầu quay lại, những cặp mắt thèm thuồng nháo nhác tìm kiếm. Những cánh tay chìa ra tua tủa châu về phía anh:

- Em đã, đại đội trưởng. Em giơ tay trước nhất.

- Láo, tao mới là người giơ tay trước nhất. Mày ngồi hàng trên làm sao ngửi ngay ra hơi khói mà xin?

- Em đăng kí thứ ba, xin đại đội trưởng đừng quên.

- Tôi nữa chứ? Phải chăng lính già không được chia phần?

An bảo:

- Tôi tưởng các cậu đang say sưa xem văn công nên mới dám mở bao thuốc ...Hoá ra mũi người thính thật...

Đám lính nhao nhao đáp:

- Văn công cũng thích mà thuốc lá cũng thèm. Chẳng thứ nào nhịn được thủ trưởng ạ.

- Tôi chỉ xin một hơi thôi, rồi quay lại xem văn công tức khắc... Bảo đảm với đồng chí là như thế.

Điếu thuốc chuyền đi theo hàng quân, đốm lửa đỏ lập loè. Sau cùng nó mất hút trong khi các cánh tay còn tiếp tục giơ lên chờ đón. Mấy hơi thuốc giúp An chống lại cơn buồn ngủ đang muốn kéo anh đổ sập. Anh đưa mắt nhìn lên sân khấu nhưng tai anh lại vang lên tiếng động ầm và đục khi cái xác nặng nề của sư trưởng rơi xuống nước.

" Ông ta quả là một con người cường tráng. Hẳn là một người cha đầy quyền uy với các con và một người chồng không biết mỏi trên giường. Dân xứ biển ăn nhiều cá nên bẩm sinh đã cường dương, chẳng cần cao gấu hay cao hổ. Quả tim ông ta bơm đầy máu. Máu chảy như nước tuôn từ ống lồ-ô... "

An nghĩ và bất giác đưa tay sờ lên cổ xem da thịt anh đã sạch hay chưa?...Trên đoạn đường tiến lên đỉnh thác, máu tử thi ở trên lưng anh không ngừng chảy, không ngừng tràn qua hai vai sau vòng qua hai bên cổ, rồi đổ chung vào chỗ hõm giữa lồng ngực. Máu chảy như nước tuy chậm hơn, một thứ nước ấm nóng dính dáp. Có lẽ thân thể ông ta chứa một lượng máu nhiều gấp ba lần máu gã Mèo, và quả tim ông ta hẳn cũng to gấp ba lần quả tim của gã...An nhớ lại cảm giác nhầy và ấm của dòng máu bao phủ quanh cần cổ, tràn qua ngực, chảy qua rốn lan xuống tận đám lông mu khiến anh ngứa ngáy. Rồi máu rẽ sang hai bẹn và tiếp tục bò xuống hai đùi dính nhơm nhớp như một thứ nước sốt chắt ra từ nồi hầm thịt lẫn xương. Cảm giác đó thật rõ ràng. Cảm giác đó không thể nào quên được. Máu gần giống một thứ nước sốt hoặc nhựa cây nhưng có hơi ấm và bốc mùi tanh.... An bỗng thấy tay chân rã rời. Niềm oán hận dội lên thành tiếng thầm thì trong tâm khảm:

" Tại sao mày không câm miệng lại, thằng Mèo chết tiệt kia? Tao đâu có làm tổn hại đến bản thân mày? Vả chăng, mày đâu biết được vì cơn cớ nào mà tao phải chạy trốn khỏi quê hương? Làm sao mày hiểu được nỗi khổ đau của kẻ phải xa lìa xứ sở? Ngọn gió tối tăm nào thổi qua để tai mày nghe lời kẻ khác một cách ngu dại, tấm vải đen độc địa nào che mắt mày để mày nhìn tao một cách độc ác như thế? "

Trên sân khấu, người ta đang diễn vở chèo ngắn của người Kinh. Tích chèo có tên: " Xuý Vân giả dại ". An không thuộc tích chèo này, anh chỉ nhớ mang máng đó là câu chuyện về một người đàn bà bị tình phụ hoá điên. Cô gái điên trên sân khấu mặc một chiếc váy đỏ như hoa gạo, tóc cài hoa đại trắng. Những động tác rối loạn của cô và gương mặt xinh đẹp tỉnh táo hoàn toàn chẳng ăn nhập vào nhau. Tiếng hát của cô thánh thót, thuần tuý sầu khổ và gợi tình, cũng chẳng phải tiếng hát của người điên mà chỉ là tiếng hót của một con chim mái gọi chim trống vào mùa ân ái.

" Những đôi chim trống mái gọi nhau vào mùa xuân, gù nhau suốt mùa hè, phủ nhau suốt mùa thu và thay nhau ấp trứng suốt mùa đông. Những đôi chim sung sướng. Chỉ có chúng ta là đau khổ. Chúng ta không bao giờ còn có thể gọi nhau, ve vãn nhau bằng lời hay bằng câu hát. Chúng ta không còn được làm tình và không bao giờ còn có thể sinh con đẻ cái để được ấp iu nuôi dưỡng chúng như lũ chim kia nuôi dưỡng lũ chim non. "

Những ý nghĩ ấy chầm chậm lướt qua óc não anh, chầm chậm như những lưỡi dao nung đỏ trong lò rèn áp lên da thịt. Anh nghe thịt da mình bốc cháy xèo xèo dưới lưỡi dao tàn khốc đó. Anh nhớ nàng, người vợ xinh đẹp của anh. Mối tình đầu và cũng là mối tình sau chót. Người đàn bà duy nhất của đời anh. Nàng đã ở trong da thịt anh mười sáu năm tròn, nàng sẽ cư ngụ trong tâm hồn anh cho đến muôn kiếp.

" Nàng Đông ! Em ở đâu bây giờ? Người tôi yêu? Hãy mượn gió, mượn cây, mượn lời chim hay tiếng thú trả lời cho tôi biết? Em ở đâu? và cô Nhỏ của chúng ta ở đâu? "

Họ trở thành tình nhân vào năm mười lăm tuổi. Nhưng họ đã là bạn từ thuở chập chững tập đi. Hai nhà là láng giềng gần nhất, cách nhau đúng một sườn đồi. Hai bà mẹ cùng có thai một năm, đẻ họ cùng trong một tuần trăng, nàng đầu tháng và anh cuối tháng. Sang tháng sau, hai gia đình rủ nhau chọn ngày trăng tròn để cùng làm lễ đầy tháng tuổi cho hai đứa trẻ. Dân bản đến nhà nàng ngả bò ăn mừng vào buổi trưa, buổi chiều kéo sang nhà anh quay lợn, thịt gà, nấu cỗ. Cả một ngày vui vẻ, trống phách vang lừng. Cuộc vui kéo thâu đêm, ai nấy đều ngủ lại cho đến hôm sau mới trở về nhà mình. Khoảng sườn đồi mênh mông giống như sân chơi chung của họ thời thơ ấu, nơi nàng lẽo đẽo theo anh lần mò khắp các bụi cây tìm quả chín, bắt cánh cam, bọ rùa hay đào hang dế. Lên năm tuổi, anh dẫn nàng vào những cuộc thám hiểm đầu tiên, họ rời khỏi ngọn đồi quen thuộc để

tìm đến những mạch nước khe dẫn về bản, những cọn nước bằng tre quay chậm rãi tưới xuống các cánh ruộng bậc thang, rồi ngược lên cánh rừng lảnh lót tiếng sơn ca. Mùa đông năm ấy, bệnh dịch yết hầu lan khắp huyện. Bản Xíu vốn khuất nẻo, nằm sâu trong một thung lũng cách biệt mà cũng không thoát khỏi tai hoạ chung. An mồ côi từ ngày đó. Cha anh chết hôm trước, hôm sau tới lượt mẹ anh trong trận dịch yết hầu mà đa phần người chết toàn là trẻ nhỏ. Họ là hai nạn nhân duy nhất ở tuổi trưởng thành. Lạ lùng là cùng ở một mái nhà nhưng anh hoàn toàn khoẻ mạnh, trong khi cha mẹ anh và những đứa trẻ bị chết đều phải tập trung vào một dàn hoả táng, chôn chung một góc thung lũng để phòng dịch lây lan.

Người ta vẫn bảo: " Chết cha còn chú, xảy mẹ bú dì ". Không phải nói thêm lời nào trong đại gia đình họ Nông truyền thống. Sau lễ tang, chú thím An nhượng lại ngôi nhà của họ cho gia đình láng giềng, rồi dọn về ngôi nhà sàn của bố mẹ anh để có thể nuôi cháu một cách thuận tiện. Lúc ấy, họ còn là vợ chồng son. Bốn năm sau, anh lên chín, họ mới đẻ đứa con gái duy nhất, đặt tên là Nàng My. Chẳng có điều chi phân biệt giữa hai đứa trẻ ấy, và vốn dĩ chúng cũng thương yêu nhau như cùng mẹ cùng cha. Nàng My ra đời cùng năm với Nàng Nhỏ và như thế, tới lượt chúng, hai cô bé lại trở thành những người bạn từ thuở lẫm chẫm tập đi. Năm anh mười bẩy, chú thím làm lễ cưới cho nàng và anh rồi sau đó, thuận tình ông bố vợ cô đơn, họ được phép về sống với ông trong ngôi nhà sàn bên kia sườn đồi. Một cuộc sống mặn nồng như sự kết nối của các tuần trăng mật. Nói cho đúng hơn là một mùa trăng mật miên viễn. Bởi sau khi cưới hai tuần, anh lại xuống huyện Thất Khê tiếp tục đèn sách. Một tháng một lần, cặp uyên ương được tình tự cùng nhau. Thời gian đó, trường huyện thường không đủ học sinh nên chương trình học kéo dài. Vì lẽ đó anh phải lẽo đẽo đi về hơn mười năm mới kết thúc được chương trình trung cấp. Vào khoá tốt nghiệp năm ấy, người Tày duy nhất chính là anh, Nông văn Thành, niềm tự hào của dân bản Xíu và giấc mơ chung cho tất cả đám dân Tày có của ăn của để.

Lớn lên dưới sự chở che của chú thím như vậy, An không thể làm gì khác hơn là ngoan ngoãn chuẩn bị hành lý khi chú anh ra lệnh:

- Tuy rằng con đã khá cứng tuổi nhưng vẫn còn trong thời tráng niên. Ta đã lần lữa nhiều năm nay nhưng lần này chính con sẽ phải lên đường tham gia cuộc kháng chiến. Chúng ta thưa nhà, hẹp đất, nhưng không được để cho các bản lớn chê cười.

- Thưa chú, con đã rõ.

- Thím sẽ lo chuẩn bị quần áo, thuốc men và tiền bạc cho con. Con có cần gì nữa không?

- Dạ, con cần vài ngày để từ biệt bạn bè trong bản và xuống huyện chào mấy ông thầy.

- Được. Chúng ta còn năm ngày mới tới hạn tập trung.

Sau một lát ngần ngừ, anh nói thêm:

- Con chưa làm được gì để giúp chú, từ nhỏ đến lớn chỉ vác gạo vác tiền của gia đình đi học. Giờ lên đường, bỏ lại gánh nặng gia đình.

Chú anh mỉm cười:

- Nuôi con ăn học là để con nên người. Ấy là sở nguyện của chính ta. Giờ con lên đường cũng vì ta thấy gia đình mình không thể trốn tránh nghĩa vụ với đất nước. Việc của con ra đi, cứ yên tâm ra đi. Ở nhà, chúng ta sẽ đùm bọc Nàng Đông. Vả chăng, ta với ông Cao cũng là bạn hữu..

An không dám nói thêm. Anh còn có thể nói thêm được điều gì trước một người đích thực vừa làm chú vừa làm cha? Vả chăng, đang tuổi tráng niên, anh cũng muốn lên đường. Những chân trời mới lạ mời mọc anh. Những tiếng ầm ì từ khoảng không xa xôi vẳng lại khiến tâm hồn anh nôn nao. Cuộc chiến tranh sôi động của dân tộc vọng đến tận những rẻo rừng hẻo lánh nhất. Nhiều bạn đồng môn của anh đã lên đường. Nàng Xuân cũng rời bản Xíu ra đi khi tròn mười ba tuổi, gia nhập đội thiếu sinh quân của chiến khu. Mai đây, em gái anh có thể được gửi đi học Liên-xô hay Trung quốc theo chương trình đào tạo của chính phủ cách mạng. Như thế đấy, làm sao anh ngồi yên?Thung lũng êm đềm quê hương bị quây bọc bốn bề bởi rừng núi. Những giải rừng hiền hoà anh đã thuộc kĩ từng lối mòn. Những rặng núi thân quen anh có thể đếm đủ bao nhiêu dòng nước róc rách trên các khe đá chảy xuống. Con thác Sơn ca reo khúc nhạc bất tận từ thuở anh lẫm chẫm tập đi cho tới lúc anh biết làm tình. Những dấu chân của đàn trâu dẫm trên con đường lầy lội vào bản ngày mưa. Tiếng lục lạc reo dưới cổ chúng vang lên trong các hoàng hôn vắng vẻ. Tất cả quá quen thuộc, quen thuộc đến sờn mòn và bí bức. Anh hiểu rằng anh cần rời bỏ thung lũng thân quen này để biết được thế giới bên ngoài tồn tại ra sao. Anh phải ra đi, tuy anh yêu nàng.

- Anh đi , rồi bao giờ quay về?..

Nàng hỏi.

- Anh đi đánh giặc. Hết giặc anh sẽ về.

Anh đáp, như hết thảy những người trai thời tao loạn ; nói những lời lẽ đẹp đẽ cổ xưa mà họ đã thuộc lòng.

- Em nhớ anh.

Nàng nói tiếp và bắt đầu khóc.

- Anh cũng nhớ em. Nhưng để làm tròn nghĩa vụ với non sông, anh phải ra đi. Nhớ anh thì hãy chờ anh. Nhất định anh sẽ về.

Anh đáp lại. Cũng những lời lẽ mà các chiến binh ngàn đời đã nói với người vợ trẻ của họ trước khi rời khỏi xóm thôn. Những lời an ủi ấy hẳn dành cho cả kẻ ra đi lẫn người ở lại bởi tuy nói để trấn an người yêu nhưng sống mũi anh cũng bắt đầu cay như ăn nhầm dưa cải muối còn xanh. Nàng gục mặt lên vai anh và nước mắt nàng thấm ướt tấm áo chàm anh đang mặc. Nước mắt nàng ấm nóng. Ấm nóng như là ...

Ý nghĩ ấy khiến An sởn gai ốc. Anh vội nhắm mắt lại. Một hơi gió lạnh thổi tạt từ phía sân khấu vào mặt anh, và cùng lúc ấy, tiếng hát của người đàn bà điên dại mặc váy đỏ, tóc cài hoa đại vang đầy không gian:

" Con gà rừng,

Sao mày ăn lộn với lũ công...

Sao mày gian dối, hỡi con gà rừng?..."

An thầm nói với chính mình:

" Cuộc sống vốn dối gian như vậy. Tựa như con gà rừng ăn lộn với bầy công. Nước mắt thơ ngây của em làm nóng vai ta đêm năm xưa. Còn đêm nay, vai ta lại ấm nóng bởi máu người. Máu kẻ phản bội trộn lẫn máu người vô tội. Một kiểu như con gà rừng ăn lộn với bầy công. Nhưng đấy chính là con đường của số phận dẫn đưa. Ta không có cách nào thoát khỏi con đường ấy. Ta sẽ còn tiếp tục đi theo con đường ấy để tìm đến nơi em trú ngụ. Em và nàng Nhỏ của chúng ta "

- Hoan hô........

- Hoan hô....Hoan hô....

Mọi người ào ào đứng lên xung quanh An. Anh vội vã đứng lên theo họ. Đêm biểu diễn kết thúc. Tất cả các diễn viên, các nhạc công cùng đổ ra sân khấu một lần để chào binh lính. Ban chỉ huy lên sân khấu tặng hoa. Gọi là hoa nhưng thực sự chỉ là các bó cỏ lau, kẹp ở giữa một bông chuối rừng hoặc một chùm mẫu đơn núi. Nhưng tất thảy đều tràn đầy phấn khích. Đàn phong cầm kéo vang hết cỡ trước máy phóng thanh để cả người diễn lẫn người xem cùng hát lên bài ca chung cuộc trước lúc chia tay. Người đứng bên trên sân khấu vẫy hoa, lính bên dưới vỗ tay theo nhịp trống:

Ta vượt trên triền núi cao Trường sơn
Đá mòn mà đôi gót không mòn
Ta không nề gian lao không nề xông pha
Quân về theo gió đang dâng triều lên...

Tiếng vỗ tay dội vang rừng núi. Rồi sau một vài phút ồn ào, sư đoàn phó bước lên trước micro cảm ơn đoàn văn công, đồng thời chúc các đơn vị một thời kì huấn luyện tốt đẹp...An nhìn rõ vẻ nháo nhác tìm kiếm của ông ta trước khi bước lên sân khấu. Bởi người có sứ mạng nói lời kết thúc đêm nay lẽ ra phải là sư trưởng.Vị lãnh đạo đã biến mất một cách thần bí.

Rồi các đơn vị trong tiểu đoàn 209 bắt đầu kiểm lại quân lính trước khi rút lui. Quân của sư đoàn chia ra các ngả về trại. An nhìn thấy tiểu đoàn trưởng Nhã vẻ như đang tìm kiếm mình. Anh giơ tay lên cao vẫy:

- Tiểu đoàn trưởng, đại đội chúng tôi ở đây.

Phía xa, Nhã cao tiếng gọi:

- Đồng chí cho anh em về nghỉ rồi đến gặp tôi.

An ra lệnh cho các trung đội trưởng:

- Các đồng chí có thể về lán. Chẳng còn gì để làm vào lúc này. Sáng mai, chắc chắn lãnh đạo sư đoàn cho anh em ngủ bù. Tôi đoán vậy.

- Báo cáo đại đội trưởng, cho anh em ngủ bù là hợp lý. Giờ đã là ba giờ kém hai mươi nhăm.

Các cánh quân 209 theo nhau rút lui. Gấp gáp, chen lấn, hối hả không thua gì lúc đến. Từng đợt sấm ì ầm đã vọng bên trên các cánh rừng.

- Mau chân lên mày ! Thằng này hậu đậu hay sao thế?

- Mau thế chó nào được. Đường hẹp bỏ cha.

- Thế thì mày dẹp sang một bên cho tao vượt lên trước.

- Các cậu cãi nhau ngậu xị làm gì vậy? Vượt lên hay tụt xuống thì cũng chỉ hơn nhau vài thước, trốn không khỏi mưa. Biết điều thì chuẩn bị sẵn vải nhựa ra.

- Lậy trời đừng mưa vội. Lạy trời chờ chúng con về lán rồi hãy đổ mưa. Mưa có to đến mấy cũng được.

- May ra thì thoát được, sấm đằng đông vừa trông vừa chạy, nhưng đêm nay lại sấm đằng tây.

- Đồ ngốc, sấm đằng tây mưa giây gió giật, tuy có muộn hơn nhưng lại dữ dội gấp muôn phần.

- Rồi xem.

Gió đêm cuồn cuộn chảy trên các vòm cây hùng vĩ. Tiếng lắc rắc của các cành lá nghe như chúng sắp gãy ngay trên đầu ta. An chờ cho lính rút lui hết mới thong thả tiến về phía tiểu đoàn trưởng. Ông đang đứng với sư đoàn phó và đám lãnh đạo các tiểu đoàn. Họ đứng thành hình vòng tròn, khi anh bước tới vòng tròn đó mở ra như một cách chờ đợi và chào đón. An hiểu rằng họ không biết tìm thông tin ở đâu ngoài một mình anh:

- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, đồng chí cho gọi tôi?

Anh dừng lại trước tiểu đoàn trưởng Nhã, cất tiếng hỏi:

- Lại đây ! Lại gần đây !

Nhã vồn vã:

- Không phải để gặp mình tôi mà toàn thể ban lãnh đạo. Chúng tôi đang lo lắng vì không rõ sư trưởng đi đâu. Vào nửa chừng cuộc biểu diễn, đồng chí ấy đã đi theo một cán bộ đại đội bên tiểu đoàn bạn...Đến bây giờ cũng không thấy hai người quay trở lại. Tiểu đoàn 209 báo cáo rằng trước khi vào bãi xem đại đội trưởng người Mèo này đã gặp đồng chí tại cửa rừng. Và sau đó đồng chí đã cùng với anh ta nhập vào đơn vị 209?

- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, chính xác là như thế. Tôi ngồi xem với cậu ta cho đến hơn chín giờ. Đột nhiên bị đau bụng nên phải quay về lán lấy thuốc uống. Lúc trở lại trảng tôi tìm về đại đội của mình vì e lính sốt ruột không thấy thủ trưởng đâu.

- Đồng chí là đồng đội cũ với đại đội trưởng người Mèo?

- Dạ, tôi cùng trung đội với Mã Lỳ từ hồi trên rừng Việt bắc. Nhưng lúc đó cậu ta chỉ là giao liên ngoài phiên chế vì chưa đủ tuổi. Rồi sau ngày giải phóng thủ đô, trên cử người về tuyển lính vượt biên giới làm nhiệm vụ đặc biệt. Một số anh em đã tình nguyện lên đường, trong đó có tôi. Như thế, đã mười lăm năm chúng tôi không gặp nhau.

- Những ngày còn gần gũi cậu ta trên Việt bắc, đồng chí có biết gì về hoàn cảnh riêng tư của cậu ta hay không?

- Tôi không biết nhiều lắm vì tuổi tác chênh lệch. Cậu ta thân với mấy anh Sán dìu, Sán chỉ vùng Lạng giang Hà bắc hơn tôi. Nhưng thi thoảng nhóm dân tộc chúng tôi gồm sáu chủng loại cũng góp tiền rủ nhau liên hoan. Những dịp ấy, Mã Lỳ thường khoe rằng máu chảy trong người cậu ta không phải thuần tuý máu dân Mèo mà là một thứ hộn huyết . Bà ngoại cậu ta vốn là dân Kinh buôn cá mắm khô gặp thời ly loạn bị cướp hết bạc tiền nên đành ở lại miền núi, lấy ông ngoại cậu ta vốn là tay buôn thuốc phiện có tiếng trong vùng. Hồi nãy, khi chúng tôi mới gặp nhau, Mã Lỳ có nói rằng cậu ta sẽ đi tìm một người bà con trong sư đoàn của chúng ta.

- Sư trưởng?

Cùng một lúc sư đoàn phó và các tiểu đoàn trưởng bật lên câu hỏi. Không ai trả lời. An hỏi lại họ:

- Các đồng chí nói rằng sư trưởng đã ra đi cùng với Mã Lỳ?

- Đúng thế. Sau tiết mục hề chèo thứ sáu.

Sư đoàn phó đáp.

- Lúc đó chắc tôi chưa kịp quay lại.

An nói.

Cả đám sĩ quan giương mắt nhìn nhau, người nọ nhìn vào mặt người kia như học trò vỡ lòng nhìn vào tấm bảng đen ghi đầu đề toán cấp một. An chờ đợi vài phút rồi quay sang tiểu đoàn trưởng Nhã:

- Tôi nghĩ họ sang bên kia núi Gấu trúc trước lúc đêm diễn kết thúc. Nếu quả thực sư trưởng là họ hàng của Mã Lỳ, cậu ta sẽ phải gọi đồng chí ấy là cậu. Với người Kinh, họ nhà nội thường coi là gần gụi nhưng với người Mèo, cậu cháu, họ đằng mẹ hay bà ngoại mới thật sự là thân thiết. Ngần ấy năm cách biệt, họ phải có rất nhiều chuyện để nói với nhau.

- Có thể ...

Nhã đáp.

Một tràng sấm ầm ì liên tiếp đuổi nhau từ phương tây vang tới. Vài tia lửa mờ rọi lên vùng trời đêm đen như than. Sư đoàn phó đưa mắt nhìn khắp lượt rồi nói:

- Dù sao chúng ta cũng phải chờ đến sáng mai mới rõ được sự tình. Quả là kì cục. Nếu sư trưởng cần thiết đi đến như vậy, ít nhất đồng chí ấy cũng phải nhắn cho tôi một lời.

Ông móc chiếc đồng hồ trong túi áo ra xem rồi nói tiếp:

- Ba giờ đêm rồi. Chúng ta về hầm thôi. Ngày mai, chín rưỡi sáng ban chỉ huy tập trung. Lính tráng cho ngủ thoả sức.

Quay sang An, ông bảo:

-Cảm ơn đồng chí. Chúc ngủ ngon.

Đám người tản ra theo các lối khác nhau trở về nơi trú ẩn. Tiểu đoàn trưởng Nhã cùng An theo một lối. Trên chặng đường tối đen như mực, bất chợt Nhã buông tiếng thở dài:

- Không hiểu sao tôi bỗng cảm thấy đêm nay vô cùng ảm đạm. Thật phí hoài cả cuộc vui.

- Vâng.

An đáp.

Một chuỗi sấm nữa lại nổ rền. Hơi gió lạnh thổi ràn rạt qua trảng cỏ làm tê lạnh da mặt họ.

Tiểu đoàn trưởng bảo:

- Chạy đi! Gió đã đổi mùi.

- Vâng.

Hai người cùng cắm đầu chạy . Ánh đèn nhoang nhoáng vẩy trong bóng đêm. Mươi phút sau, họ chui được vào hầm. Cũng chính lúc đó, đêm bừng lên từng đám tia chớp, te tướp loằng nhoằng như những bó gân người bị tước nhỏ. Tiếp đó, những hồi sấm liên tục nổ vang ngay trên đầu họ. Rồi mưa quất xuống những loạt liên thanh. Gió bắt đầu gào hú từng cơn, bổng trầm xen những loạt roi mưa quất ràn rạt. Cây cối vặn mình răng rắc, nghiêng ngả bốn bên. Hai người đứng lại trước của hầm một giây, nhìn ra ngoài trời:

- Khiếp thật. Đúng là cơn đằng tây mưa giây gió giật.

Tiểu đoàn trưởng nói.

- Vâng.

An gật đầu.

- Giờ là lúc chúng ta có thể yên tâm ngủ. Ít nhất cũng được đêm nay.

Nhã nói tiếp.

- Vâng, chiến tranh mà. Sống ngày nào hay ngày ấy.

An hoạ theo.

Rồi hai người vào hầm.

Khi đã chui vào màn, An lắng nghe tiếng mưa tuôn như thác xối ngoài trời, thầm nói:

" Ngày mai, không dấu vết nào còn lại trên bờ suối. Có một trăm thứ kính hiển vi cũng không tìm nổi vân tay kẻ sát nhân. Sư trưởng ơi, chớ thù oán tôi mà tội nghiệp. Ông đã trót là người nắm quyền trong bộ máy này. Quyền càng cao thì nguy hiểm càng sâu. Vinh càng dầy thì nhục càng đậm. Xưa nay sự thế vẫn xảy ra như vậy. Ông hãy ngủ yên nơi chín suối với những người thân thuộc của tôi."

Anh thở dài. Rồi tức khắc chìm vào giấc ngủ.

Giấc ngủ ấy không có ác mộng, cũng chẳng có cơn mơ vàng.

Không một hình bóng quá khứ, cũng chẳng một nét vẽ về tương lai.

Giấc ngủ ấy đen kịt như đêm đông, dầy đặc như sương mù tháng chạp, nặng nề như cỗ xe bò chở gỗ. Giấc ngủ ấy như con thuyền bơi trên một dòng nước mênh mông, lặng lờ không sóng vỗ, chẳng ra sông cũng chẳng ra hồ, không phải đầm nước trong cũng chẳng phải vùng biển đục. Con thuyền ấy chở anh trôi đi, trôi triền miên giữa một vùng đen thăm thẳm...

Đại đội trưởng An ngủ liền một mạch cho đến tận mười giờ sáng hôm sau, khi ban chỉ huy tập trung, tiểu đoàn trưởng Nhã thấy thiếu mặt anh cho lính quay về gọi. An vùng dậy, đi ngay.

Trong hầm chỉ huy, tất cả đã tề tựu, người đứng kẻ ngồi, túm tụm thành từng nhóm. Thấy anh, tiểu đoàn trưởng Nhã tiến ra đón:

- Ngủ kĩ vậy? Tôi ăn sáng rồi đi luôn không quay lại hầm. Tưởng cậu phải nhớ giờ mà dậy?

- Thủ trưởng biết tính tôi hay ngủ nướng mà. Khi tôi thức dậy hãy còn tối đất nên đành nằm xuống ngủ thêm giấc nữa. Giấc ngủ lại bao giờ cũng nguy hiểm. Sao? Các đồng chí đã có tin tức của sư trưởng hay chưa?

- Không thấy gì hết...nhưng...

- Có chuyện gì vậy?

- Lính tìm thấy hai chiếc quần của họ, cùng vũ khí và những thứ đồ lặt vặt trên bờ suối. Sư đoàn đang đứng trước sự lựa chọn nan giải: Hoặc là báo cáo lên trên, chờ phán xử. Hoặc phải tìm cho ra lý do hợp lý hoá việc này. Sư đoàn phó và tất cả chúng tôi hy vọng sự gợi ý của đồng chí. Ở đây, đồng chí là người duy nhất từng quen biết đại đội trưởng dân tộc Mèo, đối tượng tác nhân.

- Xin cảm ơn sự tin cậy của các cấp lãnh đạo. Nhưng khả năng hiểu biết của tôi vô cùng hạn chế. Mã Lỳ là người Mèo. Anh ta ở nhà đất, ăn bánh ngô, trồng thuốc phiện là nghề chính.Tôi là dân Tày. Dân Tày chúng tôi ở nhà sàn, nuôi trâu bò gà lợn và trồng lúa nương, ăn cơm tẻ lẫn xôi nếp. Thông thổ, tập tục khác nhau. Thêm nữa, cũng đã mười lăm năm cách biệt.

- Dẫu sao các đồng chí cũng đã từng là đồng đội. Vả chăng, cùng là dân miền núi.

An cất tiếng cười:

- Bây giờ tất cả chúng ta đây đều là dân miền núi bởi chúng ta sống trong dãy Trường sơn. Gọi dân miền núi chung chung có nghĩa rằng chẳng biết gì về đám dân sơn cước.

- Ồ ....thành thực mà nói...

Nhã lúng túng đáp rồi gỡ kính xuống lau, cử chỉ quen thuộc mỗi khi bối rối. Lúc đó sư đoàn phó đã nhìn thấy An nên ông vội vã tiến đến. Theo sau ông là nhóm cán bộ đứng đầu các tiểu đoàn. Mọi người chào nhau rồi tất thảy xúm quanh An với vẻ chờ đợi. Nhưng anh quay sang tiếp tục nói với tiểu đoàn trưởng Nhã:

- Trước hết, tôi muốn xem người ta tìm thấy những gì trên bờ suối. Bởi, tôi không tin Mã Lỳ rủ sư trưởng xuống suối tắm, nhất là lúc trời đã tối đen và nước đã trở lạnh. Nói thẳng thừng, người Mèo không thích tắm. Họ có thói quen tắm lửa, nhất là những ai đã lâu ngày hút thuốc phiện. Đồng chí biết thuốc phiện đã từng được coi như cơm trắng trong vương quốc người Mèo?

- Thú thực, lần đầu tôi nghe chuyện ấy. Quê tôi ở ven sông Hồng. Từ ngày vào lính cũng chỉ tiếp xúc với dân Kinh. Đồng chí là người dân tộc đầu tiên tôi quen biết.

- Lãnh thổ của người Mèo nằm trên tam giác vàng, miền trồng cây anh túc và sản xuất thuốc phiện cho nửa phần châu Á. Vua Mèo Hoàng-su-Phì từng thống lĩnh một đội quân đặc biệt tinh nhuệ, có nhiệm vụ bảo vệ những chuyến hàng vượt biên giới, đánh trả lại bất cứ quân lính của quốc gia nào cũng như các toán lục lâm. Dân Mèo vì thế buộc phải trồng thuốc phiện cho nhà vua để đổi lấy gạo, muối, cá mắm khô và dầu hoả. Nhiều đời như thế, họ trở thành nghiện thuốc phiện như người Kinh nghiện ăn cơm trắng. Không hiểu vì lý do nào, những người nghiện thuốc phiện thường rất sợ nước. Họ ít khi tắm suối, tắm khe hoặc đun nước nóng tắm trong nhà. Họ thường cởi quần áo ngồi cạnh đống lửa để hơi nóng làm mồ hôi toát ra khắp các lỗ chân lông, rồi họ lấy tay vê ghét lại thành viên và ném vào đống tro hoặc vun vào một góc rồi đổ ra vườn.

- Trời đất ơi, thật thế à?

Một cán bộ tiểu đoàn bật lên tiếng kêu kinh ngạc.

An quay sang nhìn ông ta:

- Đồng chí cho là tôi bịa chuyện? Hoặc là tôi phân biệt sắc tộc nên nói xấu người Mèo?

- Ồ không...

Sư phó gạt đi:

- Đơn thuần chỉ là sự ngạc nhiên thôi. Đồng chí chớ hiểu lầm. Chính tôi đây cũng chưa từng biết điều đó.

An biết rằng câu chuyện về cách tắm của người Mèo kích động trí tò mò của đám cán bộ sư đoàn nhưng họ cố ghìm nén mà không dám hỏi thêm. Cứ nhìn những ánh mắt thầm lén trao đổi là đủ biết.

Tiểu đoàn trưởng Nhã nói với sư phó:

- Đồng chí An muốn xem hiện trường bởi không tin vào giả thuyết là hai người rủ nhau tắm suối. Tôi hy vọng lính còn giữ nguyên mọi dấu vết?...

- Yên tâm...Tôi đã ra lệnh bảo vệ hiện trường trong khi chờ đợi kết luận. Đồng chí có thể đưa đồng chí An ra xem.

- Chúng tôi sẽ trở lại ngay sau khi xem xét.

Nhã nói. Rồi tiểu đoàn trưởng ra khỏi hầm chỉ huy trước tiên.

An đi sau ông, nhìn mái tóc hoa râm phủ trên cổ áo đã bạc màu. Ở tuổi năm mươi, trông ông già hơn sư trưởng đến mười năm. Trong cuộc chiến tranh này, rõ ràng là dân miền biển và dân miền núi chịu đựng tốt hơn nhiều đám dân đồng bằng. Những bông hoa nở ven bờ sông Hồng, sông Luộc tàn rất mau vì mưa nắng Trường sơn.

Đồng hồ chỉ mười giờ hai mươi phút nhưng lính tráng đã đứng túm năm tụm ba khắp trảng. Lẽ ra họ có quyền ngủ hoặc ngồi chơi bài trong hầm. Nhưng tin tức rỉ từ tai nọ sang tai kia, nên khi hai người đi đến bờ suối, lính sư đoàn đã đổ ra đông nghịt. Một sợi dây dù chăng giữa ba thân cây, làm ranh giới bảo vệ hiện trường. Tiểu đội trực thuộc văn phòng ban chỉ huy sư đoàn làm nhiệm giữ đám lính tò mò bên ngoài sợi dây dù đó.

An đưa mắt nhìn bờ suối. Dấu vết con lũ còn hằn lên các ngấn cát và những đám sỏi bị nước bào. Những thứ đồ vật chiều qua xếp gọn thành đống giờ tẩu tán khắp nơi. Hai chiếc quần trôi tụt xuống phía dưới chừng dăm thước rồi dạt vào một gốc cây. Một chiếc đèn pin chúc đầu xuống cát chỉ còn nhô lên hai phần ba thân

đèn, chiếc kia bị nước cuốn trôi tít xuống chừng ba mươi thước rồi mắc vào một đám cành khô. Những thứ lặt vặt như lọ tăm, hộp thuốc lá, bật lửa, bấm móng tay....biến mất tăm không dấu vết. Chỉ hai khẩu súng là còn nguyên vị trí cũ cùng với một chiếc giầy. Tuy nhiên, chúng cũng phủ đầy bùn cát. Ồ, cơn mưa rừng đêm qua quả là trác tuyệt, nó đích thực là một gã phù thuỷ cao tay đã biến đổi hoàn toàn cảnh tượng sau lời thần chú.

- Ồ, cơn đằng tây mưa giây gió giật.

An bất giác thốt lên tiếng kêu:

- Đồng chí nhìn xem ngấn bùn đọng trên chiếc giầy.

- Quả là hung dữ, cơn mưa rừng đêm qua...

Tiểu đoàn trưởng Nhã gật đầu rồi nói tiếp:

- Mùa mưa năm trước, con suối này cuốn đi cả một cặp nai. Lính sư đoàn 89 đóng quân ở mạn dưới nhìn thấy hai con vật còn giãy giụa giữa dòng liền đem súng ra bắn rồi quăng dây kéo vào làm thịt. Kéo được hai con nai vào thì một cậu lại bị rớt xuống và lũ cuốn phăng đi không kịp cất tiếng kêu.

- Sao tôi không nhớ chuyện đó nhỉ?

- Nhớ làm sao được? Chuyện đó chỉ phổ biến trong nội bộ lãnh đạo ban sư đoàn. Ai dám chấp nhận sự thật ấy?

Tiểu đoàn trưởng chép miệng và hạ giọng gần như thì thầm:

- Khổ thay ! Miếng ăn đổi lấy mạng người.

An trầm ngâm nhìn dòng suối và thầm nhủ:

" Đêm qua nếu ta không cột chặt một bên chân vào gốc cây, hẳn ta cũng lãnh được một cái chết như cậu lính vớt nai kia. "

Quay lại, An thấy đám lính đang chằm chằm nhìn anh và Nhã. Họ là những khán giả của một vở tuồng thần bí không có cốt truyện cũng chẳng có phông màn. Nhân vật chính không xuất hiện. Chỉ duy nhất vài mẩu trang phục và dăm thứ đạo cụ ném ngổn ngang. Nhưng vở tuồng này kích động tâm trí biết bao người vì nó liên quan cùng lượt đến cái chết hữu hình và cái chết vô hình. Nếu không hẳn là cái chết tuyệt đối thì cũng là sự thương tổn nghiêm trọng đến danh dự các cấp lãnh đạo. Chưa đầy ba tháng trước, toà án binh vừa xử bắn hai cậu lính hiếp một người đàn bà Vân kiều đốt than trong núi. Cuộc xử tử được thông báo khắp bốn sư đoàn quần thảo nơi chiến trường để làm gương răn đe. Vậy mà giờ đây, sư trưởng sư đoàn danh tiếng nhất, nhiều thành tích chiến đấu nhất khắp miền biến mất tiêu với một gã Mèo, trong đêm khuya, không một lời nhắn nhe, và vào buổi sáng hôm sau người ta tìm thấy hai chiếc quần trôi dạt trên bờ suối. Hẳn không cần thông minh lăm lắm cũng có thể mường tượng được tất thảy những gì xảy ra trong óc não đám lính đang xúm đông xúm đỏ kia.

Có lẽ tiểu đoàn trưởng đã đoán được điều ấy nên sau một lát chờ đợi, ông lên tiếng giục An:

- Chúng ta quay về hầm chỉ huy được chưa?

- Vâng.... Nhìn thế cũng là đủ.

An đáp. Rồi họ quay gót. Tiếng lào xào bàn tán của đám đông đuổi theo họ. Nhất là khi hai người đi khuất trong rừng, gần như tức thời tất thảy những tiếng nói đều cất cao lên, giọng nào cũng oang oang như ra-đi-ô mở hết cỡ. An hiểu rằng đám lính trẻ chủ tâm để cho họ nghe thấy:

- Tôi đoan chắc là hai ông này rủ nhau ra nơi vắng vẻ chơi trò kê giao. Họ chọn đúng thời cơ đấy chứ? Lính đang mê mải xem văn công, các ngài ra đây giải quyết nỗi buồn cho củ hành bí bức.

- Kê giao là cái gì nhỉ?

- Đừng vờ vịt, tiên sư bố khỉ. Mày không biết thì còn ai biết cái trò ấy?

- Mày muốn gắp lửa bỏ tay người phải không?

- Lửa với than ! Bữa trước thằng mặt mẹt nào kể với tao là lính Lào chuyên trị chơi trò lắp đít?

- Thế lắp đít với kê giao là một hay sao? Giờ tao mới biết...

- Bố sư thằng hề đểu.

- Không đểu thế làm sao chúng mày được mặc sức cười?

Những tiếng cười náo loạn chen chúc nhau, rú rít, sằng sặc,ha hả....Những tiếng cười bắn liên tục như đạn liên thanh. Những tràng cười rặn ra từng cục như kẻ táo bón trong cơn sổ ruột.

An nhìn thấy Nhã cúi đầu rảo bước thật nhanh, dường như muốn chạy trốn những lời đàm tiếu của đám lính. Chắc tiểu đoàn trưởng khổ tâm lắm. Đó là một con người nho nhã, có đôi phần đơn giản. Mọi tổn thất của cuộc sống tinh thần thường khiến ông hoảng hốt và bị dằn vặt nặng nề hơn những người khác.

An rảo bước tiến sát lưng ông, lên tiếng:

- Chẳng ai sinh ra để làm lính. Chiến tranh là sự chẳng đừng. Thủ trưởng chớ nên nghĩ ngợi nhiều quá.

- Tôi vốn là người không thích đa sự. Nhưng quả tình không muốn nghĩ cũng không được. Đồng chí lý giải ra sao sự việc này?

- Tôi cũng bất lực. Tôi không thể thông minh hơn các đồng chí.

- Chúng ta sẽ giải thích ra sao trước anh em?

- Nếu chúng ta không hiểu thì tốt nhất là đừng giải thích.

- Nhưng điều đó là bất khả. Muốn hay không cũng phải giải thích lý do trước tất thảy mọi người. Trong quân đội, mọi cái chết đều phải tuyên bố rõ ràng vì nó còn liên quan đến những người trong gia đình họ. Hoặc là một cái chết nhục nhã của kẻ phản bội, hoặc là sự hy sinh vì nhiệm vụ trước nhân dân và như thế, thân nhân của họ có quyền được hưởng sự đền bù.

- Vâng.

Nhã đáp.

Cùng lúc, trong thâm tâm anh bật lên tiếng cười chua chát:

" Nhưng cuộc đời không đơn giản như thế. Còn có rất nhiều cái chết nằm ở ngoài vùng đất quy hoạch của các vị. Có những cái chết oan uổng, những cái chết nghẹn ngào câm lặng, những cái chết vô ý vô tình, những cái chết bò đến như loài rắn độc, những con rắn độc của định mệnh mà không ai có thể phòng ngừa và chống đỡ. "

Chẳng mấy chốc họ đã trở lại hầm chỉ huy.

Mọi người lặng lẽ uống nước chè hoặc rít thuốc trong khi chờ đợi họ. An biết người ta muốn có một lời giải thích. Nhất thiết phải có một lời giải thích. Vì thế, tốt nhất là anh lên tiếng mà không chờ phải nì nèo.

- Báo cáo sư phó và toàn thể ban lãnh đạo...Tôi đã cùng tiểu đoàn trưởng xem xét kĩ những vật còn lại trên bờ suối. Tôi tin chắc sư trưởng và Mã Lỳ không thể rủ nhau tắm bởi dù còn khoẻ mạnh sư trưởng cũng đã ngoại ngũ tuần. Thời điểm đó, nước suối rất lạnh. Thứ hai, chắc chắn Mã Lỳ không dám lội xuống nước. Suốt quãng thời gian ở trên rừng Việt bắc, tôi chỉ chứng kiến cậu ta tắm hai lần, cả hai lần đều vào giữa trưa hè nóng nực và do nhóm bạn Sán dìu, Sán chỉ rủ. Bình thường, Mã Lỳ không bao giờ nhúng mình xuống suối, dù có phải lội qua thì cậu ta cũng mau chóng lau khô người để mặc quần áo. Chúng tôi vẫn gọi các cậu Mèo là lũ mèo nhát nước. Do đó, không có lý do để họ điên khùng bỗng dưng lội xuống tắm trong bóng đêm. Còn những lý do khác, tôi chưa đủ thời gian hoặc kinh nghiệm để phán đoán...

Nói xong, anh ngồi xuống bên tiểu đoàn trưởng. Đám người câm lặng. Ai đó khúc khắc cất tiếng ho. Rồi sư phó nghiêm giọng tuyên bố:

- Tôi buộc phải yêu cầu tất cả các đồng chí cho ý kiến để đi đến quyết định cuối cùng. Muốn hay không tất cả chúng ta cũng có trách nhiệm giải quyết sự việc này. Muốn hay không nó cũng liên quan trực tiếp đến danh dự của mỗi người ngồi đây. Chúng ta phải đương đầu với trên một ngàn lính và sau đó, dư luận sẽ lây lan sang các sư đoàn bạn. Thêm nữa, chúng ta cũng không thể báo cáo lên cấp trên, chờ cấp trên xuống mở cuộc điều tra, lập hồ sơ toà án binh theo thông lệ, bởi điều đó là chuyện không tưởng. Riêng thời gian chuyển công văn đi lại cũng mất nửa tháng là tối thiểu, đó là trường hợp thuận lợi tuyệt đối, giao liên an toàn không gặp thám báo, lũ cuốn hoặc thú dữ...Vả lại, chỉ đêm nay mưa rừng sẽ cuốn trôi sạch nếu chúng ta không gom nhặt những đồ vật còn sót lại trên bờ suối. Những thứ lưu vật đó cần phải được giữ lại cho gia đình những người mất tích. Tôi dùng chữ mất tích ở đây vì chúng ta không rõ số mệnh của sư trưởng và đại đội trưởng người Mèo kia ra sao?...Chúng ta hy vọng rằng họ có thể còn tồn tại, trong một cách thức nào đó mà chúng ta chưa biết rõ.

- Tôi nghĩ rằng chúng ta nên gạt bỏ giả thiết mất tích. Nó không thuyết phục được ai. Tưởng tượng xem hai người đang còn tồn tại, không mảnh vải trên thân. Liệu ai có thể bắt họ làm điều đó?

- Năm trước bọn biệt kích chẳng tóm gọn cả tốp lính đang tắm suối là gì? Nếu tôi không nhầm họ là lính sư 887.

- Ồ, tôi quên khuấy chuyện ấy.

- Trí nhớ ông ngắn thế? Vừa mới mùa hè năm trước đã quên?

- Ờ, bốn mươi chín rồi còn gì? Khôn đâu tuổi trẻ, khoẻ đâu tuổi già?

- Nói các đồng chí đừng cho là mê tín. Tôi không tin sư trưởng còn sống. Sáu giờ sáng hôm nay thức dậy, tôi nghe tiếng chim kền kền kêu như rít lên trong núi. Từ dạo lính của ông Thắng dính bãi mìn đến giờ đã hơn bốn tháng, có bao giờ nghe kền kền rít lên từng bầy náo loạn như thế đâu?

- Đúng! Tôi cũng nghe chim kêu rợn cả hồn. Lúc đó mới lờ mờ sáng, vậy mà cả bầy chim đã rít lên như vậy có nghĩa chúng gặp mồi. Tiếng kêu vọng từ mạn Núi Mỏ chim. Mạn đó là nơi con suối đổ vào sông Nậm Khuốt.

Sư đoàn phó quay sang hỏi trợ lý quân sự:

- Đồng chí cho chúng tôi biết từ đây đến đấy hết bao nhiêu thời gian?

Anh trợ lý đáp:

- Báo cáo đồng chí chỉ hai mươi phút nếu chúng ta có trực thăng. Nhưng đi đường bộ thì năm ngày là tối thiểu. Từ nơi chúng ta đóng quân đến sông Nậm Khuốt không có đường vượt rừng, cũng không có đường qua trảng. Đi dọc suối lại càng bất khả vì ngay khúc suối dưới cách đây chừng non hai trăm thước, núi đá tai mèo đã dựng lên giống hệt Vùng Núi Chết bên kia. Chỉ có cách duy nhất là đi theo lối mòn của người Vân kiều. Lối ấy, không thể dưới năm ngày đường, đó là với tốc độ của một giao liên khoẻ mạnh và thành thục. Tiếng chim kêu mà các đồng chí nghe thấy không vọng lại từ sông Nậm Khuốt mà ngay ở hang núi sau cánh rừng nơi chúng ta trú quân. Bởi từ sông Nậm Khuốt đến đây đường chim bay cũng hơn ba cây số. Không tiếng chim nào có thể vượt qua đoạn đường dài như thế. Nhưng tôi nghĩ rằng loài chim gặp mồi thường có cách liên lạc và truyền tin riêng nên chúng kêu rít lên như vậy. Đó có thể là tiếng kêu để gọi bầy.

- Tôi cũng nghĩ như vậy. Phân tích của trợ lý sư đoàn hoàn toàn có lý.

Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai bật nói theo. Đoạn ông quay sang hỏi sư đoàn phó:

- Liệu chúng ta có thể xin được một chuyến trực thăng hay không?

Sư đoàn phó lắc đầu:

- Chiến trường chúng ta chưa bao giờ được hưởng ân huệ ấy. Ngay trận Đồi con Công, thương binh nặng nằm la liệt hàng trăm xin trực thăng cũng còn không nổi huống chi trường hợp này?

- Bộ tham mưu coi chúng ta thuộc loại lính cưng chắc?

Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai vặn lại.

- Không lính cưng thì cũng được nằm sâu trong vùng đất Lào. Đất Lào được hiểu một cách ngầm ẩn là nơi ít hiểm nguy hơn các vùng khác. Đồng chí quên lời thượng tướng Đồng nói bữa trước rồi sao?

Sư đoàn phó đáp lời.

- A...

Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai bật một tiếng kêu lửng lơ rồi ngậm miệng tức khắc. Chẳng ai nói thêm lời nào nữa.

Sau một hồi lâu lặng lẽ, Nhã bỗng nhiên buông tiếng hỏi bâng quơ:

- Liệu chúng ta có nên cử người xuống sông Nậm Khuốt hay không? Dẫu sao cũng phải hành động ở mức tối đa. Như thế, sau này chúng ta chẳng còn ân hận nữa.

Sư phó đưa mắt bất bình nhìn Nhã:

- Đồng chí nằm mơ hả?

Nhã còn ngơ ngác chưa kịp trả lời, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai đã quay sang đập vào vai ông:

- Khổ quá, đầu óc ông để trên trời hay dưới biển? Từ giờ đến chiều sẽ chẳng còn một mẩu da sót lại. Ông chưa từng thấy cảnh lính ông Thắng dính bãi mìn, có đúng không? Mười tám cậu cả thẩy mà chỉ hai ngày chim dọn sạch.

An thấy Nhã rùng mình. Rồi ông cố trấn tĩnh bằng cách thọc hai tay vào túi quần và cúi đầu xuống. Bình thường các cuộc họp ban chỉ huy chỉ dừng lại ở cấp lãnh đạo tiểu đoàn. Sự việc này là trọng đại nên sư đoàn phó mới quyết định mở rộng đến các đại đội trưởng. Lần đầu tiên, An có dịp quan sát người lãnh đạo trực tiếp của mình. Rõ ràng Nhã hiền lành, tốt bụng nhưng có phần kém khôn ngoan hơn lãnh đạo hai tiểu đoàn kia. Vậy mà thành tích chiến đấu của tiểu đoàn Một luôn luôn nổi trội. Có lẽ trời vốn thương kẻ khờ khạo. Hoặc nói cách khác là tất thảy những sĩ quan dưới quyền Nhã đều yêu quý ông nên họ hành động hết mình vì ông. Con người này giống một gã học trò hơn là một sĩ quan quân đội.

Sau một hồi im lặng, sư đoàn phó cất tiếng:

- Tôi đề nghị các đồng chí lần lượt phát biểu. Sự việc này xảy ra vô cùng bất ngờ. Mấy chục năm trong quân ngũ cũng không cho tôi đủ kinh nghiệm để giải quyết. Thế nên, tôi quyết định lấy ý kiến tập thể, và chúng ta chịu trách nhiệm tập thể.

Lại im lặng.

Mọi người đưa mắt nhìn nhau, dường như tra vấn, dường như cầu cứu, dường như tìm một sự thông cảm. Bởi ai cũng hiểu họ đang bước trong ngõ cụt. Sư đoàn phó móc gói thuốc sợi ra lăn một điếu. Những bàn tay khác chìa về hướng ông. Gói thuốc chuyền đi theo kiểu dây chuyền, mỗi người bốc một nhúm thuốc, bóc một mẩu giấy cuốn. Khi nó quay lại chủ nhân thì chỉ còn vẻn vẹn nhúm thuốc cuối cùng vừa đủ điếu thứ hai. Sư đoàn phó đã rít hết điếu thuốc kia nên vớ lấy nhúm thuốc cuốn nốt đoạn vo viên tờ giấy gói, nhét vào túi quần.

Tất cả đều im lặng nhả khói. Căn hầm mù mịt. Trợ lý sư đoàn đứng dậy mở cánh cửa thông sang căn hầm phía sau cho gió lùa khói ra cửa hầm. Ai cũng có cảm tưởng sự việc mịt mù như khói và không biết tìm ngả nào mà ra. Nhưng khi hút tàn điếu thuốc, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Ba, người lặng câm như hến suốt từ đầu cuộc họp đến giờ bỗng giơ tay:

- Tôi có ý kiến.

" A, cóc mở miệng rồi đây."

An thầm nghĩ. Trong lúc đó tất thảy mọi cặp mắt đều đổ dồn vào ông này và sư đoàn phó hấp tấp bắt lời:

- Chúng tôi nghe đây.

- Tôi nghĩ rằng...

Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn ba vừa nói được hai tiếng đã dừng lại uống nước. Mọi người tuy sốt ruột cũng phải nén bụng chờ vì ông nổi tiếng là chậm rãi, đủng đỉnh và ít lời. Cậu trợ lý của ông kể rằng có lần hai người đi công tác lẻ. Bốn ngày liên tục đi đường rừng mà ông không cậy răng nửa câu, ngoài những mệnh lệnh cụt lủn, kiểu như: " Chúng ta nghỉ, ăn cơm", hoặc:" Đi thôi, đến giờ rồi"...Hơn nữa, vẻ mặt ông lầm lì, kín như bưng khiến lính không dám gợi chuyện, kể cả những anh nổi tiếng bẻm mép. Thành ra, cậu nào bị phân công đi thị sát chiến trường hoặc làm công việc gì đó đột xuất với ông cũng tự coi như chịu kỉ luật: Tù mồm.

Giờ cũng vậy. Mặc kệ mọi cặp mắt đang dán vào mình, ông cứ đủng đỉnh nhắp từng ngụm cho hết chén trà rồi cẩn thận đặt xuống khay nước. Xong đó, ông khề khà hắng giọng rồi mới nói tiếp:

- Tôi nghĩ rằng chúng ta bỏ quên một khâu quan trọng: người Mèo rủ sư trưởng cùng đi. Ở đây, riêng đồng chí Hoàng An là có quen biết anh ta, nhưng cũng đã mười lăm năm về trước. Trong mười lăm năm sau đấy, không ai kiểm soát được người Mèo này làm gì, quan hệ với những ai. Thông tin chúng ta có được từ tiểu đoàn 209 rất mỏng. Tiểu đoàn này cũng vừa được gom góp từ hai tiểu đoàn thiếu sau các trận đánh nhiều tổn thất và một phần lính bổ sung vừa cập bến. Đại đội trưởng người Mèo này chính thuộc bộ phận mới từ Bắc chuyển vào. Bây giờ, tôi giả định....

Tới đó, ông ta lim dim mắt lại, dường như đang nhìn vào những cảnh tượng xảy ra trong trí tưởng của mình. Cả phòng họp nín thở chờ đợi. An cũng dán mắt vào đôi mắt khép hờ kia vì anh muốn phỏng đoán những gì xảy ra phía sau chúng. Nhưng tiểu đoàn trưởng đã mở choàng mắt ra, chăm chú nhìn sư đoàn phó:

- Tôi giả định rằng đại đội trưởng này đã từng có quan hệ với vua Mèo Hoàng-su-Phì, một kẻ thù đáng gờm của lực lượng cách mạng trước ngày giải phóng Thủ đô. Tôi giả sử rằng anh ta có mối dây huyết tộc hoặc chịu ơn sâu nặng của Hoàng-su-Phì. Như thế, chắc chắn anh ta sẽ nuôi dưỡng mối oán thù thâm căn cố đế với cách mạng. Như vậy, việc anh ta lợi dụng quan hệ họ hàng về phía ngoại mà hành động trả thù là đương nhiên. Các đồng chí đã quên rằng quân đội của chúng ta từng chịu những tổn thất rất lớn trong cuộc chiến đấu với Vua Mèo trên cao nguyên Đồng văn ở biên giới phía bắc. Chính đồng chí Hoàng An cũng biết đội quân của vua Mèo vô cùng tinh nhuệ. Vốn dĩ là dân miền núi, họ leo núi leo cây thần tình trong khi lính của chúng ta ở đồng bằng không chịu quen khí hậu băng giá và không vượt qua được những đỉnh núi tai mèo nhọn hoắt. Họ được nuôi ăn đầy đủ và tập bắn từ thuở lên mười. Đội quân này nổi tiếng là những thiện xạ bắn trăm phát trúng cả trăm phát. Hoàng-su-Phì vô cùng giàu có nên trang bị cho đội quân của ông ta những thứ vũ khí hiện đại mà lúc đó quân đội chúng ta cũng chưa có được. Với tất thảy những ưu thế như vậy, họ khống chế hầu hết những con đường độc đạo và từ trên núi xả đạn xuống tàn sát quân của chúng ta. Lính ngã xuống không biết bao nhiêu mà kể xiết. Thắng lợi của mặt trận Đồng Văn đã phải trả bằng một giá rất đắt. Tôi nhắc lại một đoạn sử để các đồng chí có thể hình dung được bối cảnh câu chuyện. Giờ, giả định rằng đại đội trưởng Mã Lỳ này là hậu duệ của Hoàng-su-Phì đã thay tên đổi họ để trà trộn vào quân đội chúng ta. Gặp sư trưởng chính là dịp thuận lợi nhất để anh ta trả thù...Anh ta vừa tiêu diệt được một cán bộ quân đội tầm cỡ, vừa bôi nhọ danh dự ông. Chúng ta đã từng sống với sư trưởng nhiều năm. Không ai có thể tin được ông làm chuyện bậy bạ ô nhục, mà trong tình cảnh oái oăm khó hiểu như vậy. Tôi cho rằng người Mèo này đã gợi những chuyện gia đình gia tộc có liên quan tới người bà con sư trưởng rồi bắn lén ông. Sau đó, y lột quần của ông và của y bỏ lại để tạo nên hiện trường giả của sự dâm loạn. Tôi ngờ rằng sư trưởng chết nhưng y còn sống và đã tẩu thoát. Sự việc phải được chuẩn bị kĩ trước khi hành động. Các đồng chí chớ quên rằng chúng ta là người Kinh nên đối với chúng ta rừng núi lẫn bóng đêm là một thế giới xa lạ, đáng sợ. Nhưng với người Mèo, họ vào rừng như cá trở về với nước. Nhất là khi họ đã chuẩn bị áo quần lẫn vũ khí tuỳ thân.

Mọi người ồ lên tán thưởng:

- Đúng rồi!

- Đơn giản thế mà chẳng ai nghĩ ra được?

- Tất cả chúng tôi đều phải biết ơn đồng chí. Thiên hạ nói không ngoa: Một khi cóc đã mở mồm.

Ai nấy chen nhau ào ào lên tiếng. Tất cả đều thở phào. Mọi gương mặt đều trở lại nhẹ nhõm và mọi ánh mắt đều trở lại linh hoạt. Cuối cùng họ cũng đã tìm ra được lối thoát. Ý kiến của tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Ba giống như ánh sáng cuối đường hầm. Không ai không tán dương ông. Sư đoàn phó vươn qua mặt bàn, vỗ vai ông và nói:

- Tuyệt vời!

An nhìn mọi người, trong lòng thầm nói:

" Thằng Mèo chó chết kia. Cuối cùng , chính mày mới được liệt kê là kẻ thay tên đổi họ chứ chẳng phải tao. Giờ thì bản án đã tuyên bố: Mày là kẻ sát nhân. Mà sự thật cuối cùng cũng đích xác là như vậy "

Như một sự trớ trêu của định mệnh, bên tai anh lại văng vẳng câu hát Con gà rừng:

" Con gà rừng;

Sao mày ăn lộn với lũ công,

Sao mày gian dối, hỡi con gà rừng?... "

*
* * *

Cuộc họp vừa tan, An đã trở lại hầm và tức khắc lăn xuống giường ngủ. Giờ cơm trưa anh cũng không dậy. Đại đội phó đến tận nơi, dựng anh lên:

- Anh ốm hay sao mà bỏ bữa như vậy?

- Không ốm, nhưng buồn ngủ. Điệu này chắc sắp sốt rét trở lại.

- Dậy ăn cơm. Nhà bếp nói sáng nay anh đã bỏ bữa rồi.

- Tôi đắng lưỡi.

- Tôi mang sẵn thuốc phòng sốt rét cho anh đây. Nhưng phải ăn no mới được uống.

" Thôi mình đành cố ăn vậy. Ốm lúc này cũng quả là bất tiện cho mọi người. "

Anh nghĩ và tung chăn ngồi lên:

- Nào thì đi ăn. Cậu ăn chưa?

- Tôi chờ anh. Hôm nay cấp dưỡng kiếm được ít rau ngót rừng. Lại có canh mà ngụp lặn.

- Anh em trong đại đội xong bữa rồi chứ?

An hỏi, đoạn cài khuy áo và bước ra khỏi hầm. Đại đội phó đi sau anh, đáp thủng thẳng:

- Lính ăn xong quay về lán chơi tu-lơ-khơ hoặc ngủ. Chúng nó hết trò xem. Ngoài suối tổ trực nhật đã thu gom các hiện vật đem về sư đoàn.

- Ra thế...

An bật cười vì lối giải thích của đại đội phó, anh hỏi tiếp:

- Ban lãnh đạo đã giải thích sự việc này hay chưa?...

- Đâu đã đủ thời gian tuyên bố? Nhưng lính tráng nghe lỏm cũng biết hết rồi. Tin tức truyền đi từ hành lang sư đoàn xuống các tiểu đoàn, rồi từ các tiểu đoàn toả xuống các đại đội nhanh hơn tên bắn.

- Ở rừng mà....Còn chuyện gì kích thích hơn đâu?

- Vâng. Chờ mấy năm mới được một buổi xem văn công. Chẳng dè xem xong lại có người thiệt mạng.

- Cậu có tin ở số phận hay không?

- Tôi tin trăm phần trăm. Chẳng dám nói ra nhưng mọi người đều nghĩ như vậy. Ở chiến trường có ai tránh được đạn đâu? Chính đạn tự chọn đích mà bay đến.? Nếu không phải số mệnh định đoạt thì tại sao đạn găm vào người này mà tránh người khác trong cùng một tình thế, cùng một thời gian?

- Số mệnh có mà cũng không. Nếu quả thực được quyền chọn lựa thì người ta không bao giờ tự đem thân ra chiến trường, nơi đầu tên mũi đạn.

- A. Vấn đề này hiểu theo mấy ông thầy chiêm tinh là vận mệnh quốc gia, là số mạng chung của một tập thể. Vận mệnh quốc gia tuỳ thuộc vào người đứng đầu chứ không thuộc bọn lính quèn hay lũ dân đen như chúng ta đây. Thời xưa, nó tuỳ thuộc vào vua. Thời nay, nó tuỳ thuộc vào ông chủ tịch.

- Nói như cậu hẳn chủ tịch của chúng ta phải có một lá số tử vi khốn nạn lắm nên dân mới phải đem thân vào chốn rừng sâu núi thẳm như vầy?

- Ồ. Tôi không định nói như vậy. Ồ, đồng chí đừng trêu cợt tôi.

Đại đội phó lắp bắp, mặt tái mét. Anh ta nháo nhác đảo mắt nhìn bốn xung quanh. An bảo:

- Đừng sợ. Chính tôi nói những điều ấy chứ không phải cậu. Mà tôi cũng không đủ trí khôn để tự cất lên những lời lẽ như vậy. Tôi nghe được từ ông thầy chiêm tinh người Việt nhưng sống lâu năm trên đất Lào. Tôi chỉ lặp lại những gì ông cụ đã dạy tôi thôi.

- Vâng.

Đại đội phó cất tiếng thở phào đoạn hạ giọng:

- Anh biết không , tôi cũng nghe một người nói hệt như vậy. Nhưng ông ấy không phải là nhà chiêm tinh mà là một sử gia.

- A. Một sử gia cũng cần có bộ óc chứa nhiều hòn sỏi như một nhà chiêm tinh. Nhưng chúng ta sắp đến nhà ăn rồi. Chuyện này riêng cậu với tôi biết thôi.

- Vâng.

Đại đội phó đáp, gần như thì thầm.

Họ ăn xong, đồng hồ đã chỉ một giờ rưỡi. Năm gian nhà gỗ rộng rênh chỉ còn lại hai người. Bên ngoài, nắng tràn lên khắp ngả. Gió hiền hoà chạy dọc các bờ cây làm lung linh trăm ngàn tia phản chiếu của các đám sương còn đọng trên những phễu lá dày. Ven bìa rừng, hoa dại nở chói lọi. Đại đội phó nhìn những cánh hoa mỏng như bươm bướm chen nhau khoe sắc đỏ sắc tím và buột miệng thở dài:

- Tôi nhớ nhà quá ...

An lặng im, chờ đợi.

Quả nhiên, đại đội phó không nén được lòng, nói tiếp:

- Đám hoa này khiến tôi nhớ những vườn cải chạy dọc sông. Mùa xuân, hoa cải nở vàng ươm, bướm ong bay về nườm nượp. Thời con trẻ, tôi chạy theo mẹ ra bãi nhổ cải. Đến tuổi cập kê, chúng bạn rủ đi tầm hội hết cả tháng giêng, đi đâu cũng thấy hoa cải vàng chạy dưới chân đê.

- Đúng rồi, tôi nhớ một câu ca dao của người Kinh:

Tháng giêng là tháng ăn chơi

Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè.

- Vâng. Ấy là câu ca dao thời xửa thời xưa. Ngày tôi ở nhà, hợp tác vận động bà con đi làm từ mồng năm tết. Nhưng làm thì làm, rồi người ta vẫn tìm được cớ để mở hội mùa xuân. Bởi đó là tập tục.

- Trên tôi cũng vậy, người ta gói bánh, rang bỏng mật rồi ngồi đánh bài suốt cả tháng giêng. Nếu không có hội cũng chẳng làm gì vì trời mưa phùn liên miên không ngớt. Lúc đó lúa đang chờ mà các nương sắn cũng làm cỏ xong rồi.

- Trên miền núi ngày hội có kéo dài như ở dưới xuôi không?

- Không dài nhưng cũng đủ đường đất rong chơi. Hội Đàn xuân kết thúc, chúng tôi rủ nhau đi xem hội Tung còn của người Thái, rồi hội chơi khèn của người Mèo. Thường chỉ đám trai bản, mạnh chân khoẻ tay và có ngựa tốt là dám đi chơi xa. Đàn bà con gái quanh năm ở lại nhà.

Hai người lặng im hồi lâu, rồi đại đội phó hỏi:

- Bao giờ chiến tranh kết thúc?

An hỏi lại:

- Bao giờ?

Chẳng ai có thể đem lại lời giải cho bài toán ấy. Một thời khắc lặng lẽ trôi qua. Đột nhiên, đại đội phó bật lên hỏi:

- Anh có nhớ thằng Toàn híp không?

- Sao không? Nó là cây hề của trung đội Một. Giờ liệu xương nó mục chưa nhỉ? Hơn hai năm rưỡi rồi còn gì? Mà đất ở đó quanh năm ẩm ướt, sương tụ, mưa núi rả rích, rêu phủ trơn như bôi mỡ từ chân lèn xuống lòng khe. Chẳng xương cốt nào trụ được với thứ thổ ngơi ấy.

An không nghe đại đội phó trả lời. Quay sang, thấy cậu ta mím chặt đôi môi nhưng nước mắt chảy nhoè nhoẹt. Đôi vai xuôi rung từng đợt như đang cơn sốt rét. Anh đưa mắt nhìn quanh nhưng may mắn chẳng còn ai có thể thấy họ lúc này. Tổ anh nuôi thu dọn xong về hầm ngủ. Có lẽ chỉ còn bầy chim thóc mách trong khóm rừng kề cận nhà ăn. Giơ một bàn tay lên, vuốt dọc sống lưng người đồng đội, anh nói:

- Khóc được như thế là tốt lắm. Khóc đi cho nhẹ lòng.

Một tiếng nói thứ hai cất lên trong con tim anh cùng lúc:

" Cậu còn có may mắn là được khóc với tôi. Còn tôi, tôi luôn phải khóc một mình. Tôi sẽ còn phải khóc một mình cho đến ngày cuối cùng của kiếp sống."

Hai người ngồi ở đó cho đến khi đại đội phó trấn tĩnh lại, lau mặt, rút trong túi cặp kính rẻ tiền mà anh ta đã khổ công mang theo mấy năm chiến tranh để nguỵ trang cặp mắt còn đỏ hoe và sưng mọng. Bên kia trảng cỏ, thấp thoáng đám lính trần truồng. An ngạc nhiên hỏi:

- Họ làm gì bên kia thế?

Đại đội phó xì mũi và đáp:

- Lính bắt nước khe chảy xuống để tắm.

- Sao chúng nó không ra suối? Tắm nước khe dễ cảm lắm còn nước suối giờ này đã ấm lên rồi.

- Anh quên rằng sư trưởng vừa chết đuối? Sáng nay lính đổ ra đông nghịt để ngó nghiêng.

- Nhưng nước chảy không ngừng và cuốn trôi tất thảy. Vả chăng sông cũng như suối chảy qua biết bao miền, làm sao đếm được bao nhiêu kẻ đã chết đuối từ thượng nguồn xuống đến hạ lưu?

- Vâng...Nhưng sư trưởng lại chết đúng đoạn suối này nên giờ đây lính sợ. Có lẽ anh là dân miền núi nên không biết nỗi sợ của người Kinh...Dân châu thổ sông Hồng cũng như những vùng sông khác đều bị ám ảnh bởi cuộc săn đuổi ráo riết và độc ác của Ma Nam. Theo huyền thoại, Ma Nam chính là oan hồn những người bị chết đuối. Họ tìm cách dìm chết những kẻ khác . Bởi khi dìm chết những kẻ khác, họ sẽ có cơ hội được giải thoát khỏi địa ngục, được đầu thai trở lại kiếp người.

- À, ra thế.

An đáp.

Và một tiếng nói thứ hai lại cất lên trong anh:

" Nếu vậy kẻ đầu tiên bị dìm chết sẽ là ta.

Không chỉ một con ma Nam mà những hai con ma Nam sẽ tìm một kẻ thù chung cần đổi mạng.

Nhưng đã từ lâu ta không còn biết sợ hãi. Sự sợ hãi đã từ lâu rời bỏ ta ; cả óc não lẫn tâm hồn. "

Anh đứng lên, nói:

- Tôi muốn tắm quá. Cậu có thích ra suối với tôi không?

Đại đội phó nhìn anh một cách hãi hùng:

- Tôi?...Tôi vừa tắm chiều qua.

An cười bảo:

- Đừng sợ, tôi chỉ cần cậu ngồi bên bờ suối xem tôi tắm. Nếu không dẹp bỏ sự kiêng kị này, làm sao giải quyết được chuyện sinh hoạt bình thường của lính? Trên một ngàn quân đứng tranh nhau mấy dòng nước khe bé tẹo teo như nước bò đái để tắm ắt xảy ra đánh đấm nhau. Trong khi con suối mênh mông bỏ trống. Tôi không tin chuyện ma Nam.

- Vâng.

- Đi theo tôi.

- Vâng.

Đại đội phó đáp như cái máy và rồi bước theo anh cũng như một cái máy. Họ ra bờ suối. Vài tốp lính quẩn quanh trong rừng tò mò đi theo. Ở đó, An cất cao giọng hỏi:

- Cậu nào xuống đây bơi thi với Ma Nam?

- Báo cáo thủ trưởng, gan chúng em còn bé.

- Chờ đấy.

An nói rồi cởi quần áo lội xuống suối, bơi ra tận giữa dòng nhào lên ngụp xuống như một vận động viên nhà nghề trổ tài trước khán giả. Vừa ngụp lặn, anh vừa đưa mắt nhìn lên con thác Voi gầm trắng xoá:

" Chẳng còn kẻ nào đau khổ hơn ta. Chẳng nỗi tuyệt vọng nào sâu nặng hơn nỗi tuyệt vọng găm trong tim ta. Như thế, chẳng sức mạnh nào có thể quật đổ ta trước khi ta trả được mối thù này."

Đám lính trên bờ vỗ tay. Họ thấy An mỉm cười nên càng vỗ tay hăng hái hơn vì tưởng rằng anh đang cười với họ. Nhưng thực sự, anh đang cười với chính số mệnh cay nghiệt của mình.

*
* * *

Mùa thu năm Quý Tỵ, lúc đó An đang đóng quân ở Tuyên Quang. Một người bà con trong đoàn dân công tải lương gặp anh vồ vập báo tin:

" Nàng Nhỏ được tiến vua, anh đã biết chưa? Tổ chức cách mạng tìm cho chủ tịch một người phụ nữ Kinh nhưng chủ tịch lại yêu Nàng Nhỏ của chúng ta nên giờ đây em vợ anh đã thành hoàng hậu. Nàng được đổi tên là Chí thị Xuân. Mười hai gia đình bản Xíu giờ đây cũng đổi sang họ Chí sau khi biết tin ấy. "

An đã nhập ngũ được hai năm. Hai năm ròng không mảy may tin tức gia đình. Cuộc gặp gỡ người bà con kia khiến anh vui sướng ròng rã hàng tháng. Niềm vui ấy như một thứ than cháy chậm, âm ỉ giữ ngọn lửa hoài hoài không tắt.

Ngay ngày hôm đó, An gặp tiểu đoàn trưởng:

- Báo cáo ban lãnh đạo, từ giờ tôi không còn là Nông văn Thành nữa mà là Chí văn Thành.

- Tại sao?

Tiểu đoàn trưởng ngạc nhiên hỏi .

- Vì chú tôi là chủ tịch xã quyết định như thế. Bản tôi chỉ có mười hai nóc nhà nên người cầm đầu đã quyết là dân bản cứ thế mà tuân theo. Người bà con vừa gặp báo cho tôi tin đó.

- Phải chăng người bà con của đồng chí đang ở trong đoàn dân công đóng trước doanh trại chúng ta?

- Vâng. Chính xác như vậy.

- Tuy nhiên, thay tên đổi họ cũng phải có lý do chứ? Không dưng, ai làm như vậy?

- Báo cáo thủ trưởng, chắc chắn là phải có lý do. Nhưng lý do ấy chỉ chú tôi và mấy ông già thông thái trong bản biết với nhau. Chúng tôi, phận con cháu không được quyền vặn hỏi.

Anh tủm tỉm cười đáp lại.

Thấy thế, tiểu đoàn trưởng liền cười theo và đáp:

- Được thôi. Chúng tôi tôn trọng quyết định của các lãnh đạo địa phương.

Nói rồi ông nhanh nhảu ra lệnh cho trợ lý. Anh này lục tìm cuốn danh bạ đơn vị, hí hoáy tẩy chữ Nông thay vào đó chữ Chí. Thế là xong. Trên chiến khu, tất thảy mọi người đều tình nguyện đi đánh giặc, nào ai có nhu cầu tìm kiếm lợi lộc gì, thế nên sở thích riêng đều dễ dàng thoả mãn. Huống chi anh lại là người dân tộc thiểu số. Các dân tộc thiểu số là chỗ dựa vững chắc của cách mạng tháng tám và cuộc kháng chiến trường kì. Bất cứ cán bộ lãnh đạo nào cũng biết nguyên tắc này: Trong mọi hoàn cảnh, cán bộ và chiến sĩ người thiểu số được quyền hưởng sự ưu đãi.

" Nàng Nhỏ của chúng ta giờ đã thành hoàng hậu !"

Niềm vui ấy cháy âm ỉ suốt những ngày còn lại của cuộc kháng chiến cùng với cái tên Chí văn Thành. Dường như cái tên mới này cũng đem lại nhiều may mắn cho An dù trong tiểu đoàn, từ lính đến sĩ quan, chẳng ai hiểu nguồn gốc bí ẩn của nó. Anh được thăng vượt cấp vì thành tích chiến đấu. Nhưng cái may lớn nhất là qua bao nhiêu trận mạc anh vẫn bình yên, chưa hề xầy vẩy xướt da. Anh không có cơ hội gặp nàng Nhỏ, tuy biết nàng đã rời bản Xíu về sống ở khu văn phòng chính phủ, cùng chiến khu Việt bắc. Nhưng niềm kiêu hãnh về nàng thắp sáng tâm hồn anh. Với anh, nàng là người em gái, hoặc nàng chính là một đứa con? Anh cũng không biết nữa. Mối dây liên kết giữa họ chẳng hề giống như những người anh rể và em vợ bình thường. Nàng Đông đã là bạn từ thuở cởi truồng nên khi Nàng Nhỏ ra đời chính anh đã cùng Nàng Đông nuôi dưỡng đứa em nhỏ. Ông Cao vốn đa tài đa phận, rời quê hương giang hồ đất khách đến bốn mươi hai tuổi mới quay về bản cưới vợ, một cô gái mỹ miều kém ông hai mươi ba tuổi chẵn. Khi bà chết, ông đã ngoại năm mươi. Tuổi ấy, chẳng người đàn ông nào còn có thể bồng ẵm hoặc cho trẻ bú mớm. Trong ngôi nhà rộng rênh của ông, xưởng cưa chiếm gian chính giữa, bàn thờ vợ gian ngoài cùng, còn gian trong nơi gầy bếp lửa được ngăn thành ba gian buồng nhỏ vách gỗ chính là nơi hai đứa trẻ lên chín tập sự làm cha làm mẹ nuôi cô em mồ côi đỏ hon hỏn trong nôi. Dạo đó, hai năm tròn An rời nhà sang chiếm một trong ba gian buồng gỗ nhỏ, gian giữa dành đặt nôi đứa bé, còn gian bên kia là của Nàng Đông. Ông Cao ngủ ngay cạnh bếp để giữ lửa. Trước cửa buồng của đứa bé, một đĩa nến cháy suốt đêm. Nếu nó khóc, khi là nàng Đông khi là anh thức dậy thay tã lót và lấy bình sữa cho nó bú. Hoạ hoằn, cả hai chưa kịp dậy ông Cao sẽ rung chiếc chuông đồng đánh thức họ...Thật kì lạ, tiếng chuông rung lanh lảnh trong đêm khuya. Ấn tượng đó anh không quên được. Tiếng chuông giống một thứ âm nhạc thô sơ nhưng sống động vang lên ròn rã trong tuổi thơ của anh. Đôi khi, nó làm cho đứa bé ngừng khóc, giương đôi mắt tròn xoe lên nhìn. Anh cũng nhớ chiếc đĩa sâu lòng bằng gốm đỏ đựng sáp ong, tim nến se bằng sợi thô to hơn chiếc đũa. Ánh lửa lung linh chập chờn hắt bóng họ lên bức vách. Ánh lửa rọi lóng lánh lên quả cầu bằng giấy trang kim treo lủng lẳng giữa tao nôi. Bàn chân đứa bé giơ lên đạp đỏ như hoa mồng gà...Anh cũng còn nhớ như hôm qua cách thức ninh một nồi cháo nửa phần nếp nửa phần đỗ xanh ra sao cho nhừ nhuyễn mà không khô cũng không quá loảng. Anh nhớ cách thức lọc cháo để lấy nước rồi cho vào bình. Anh cũng biết cách vắt sữa trâu, canh sữa trâu cho đặc, rồi cất giữ ra sao cho khỏi lên váng. Bản Xíu không nuôi bò, chỉ thuần trâu. Trẻ nhỏ uống duy nhất thứ sữa đó. An nhớ chiếc chậu gỗ thường tắm cho Nàng Nhỏ, anh một bên và nàng Đông một bên, cùng thò tay vào kì cọ cho đứa bé. Đấy là cuộc đời thật mà lại tưởng như trò chơi. Bởi chính họ cũng đang còn niên thiếu. Cái trò chơi ấy liên kết ba người trong một mối tình kì lạ. Thế nên, anh cưới Nàng Đông từ năm mười bảy cho đến ngày nhập ngũ đã hai mươi bảy tuổi tròn mà chẳng ai thắc mắc chuyện họ không có con...Đành rằng cưới vợ xong rồi anh vẫn tiếp tục xuống huyện đèn sách. Cũng đành rằng thời ấy chuyện hiếm muộn con không quá quan trọng như ngày nay nhưng dẫu sao, vẫn là sự bất thường. Nàng Nhỏ sống chen giữa hai người, một mối tình pha trộn biết bao nhiêu mầu sắc. Cả ba cảm thấy đầy đủ nên Nàng Đông cũng như anh chẳng tìm thầy chữa chạy bệnh vô sinh như láng giềng khuyên.

Cuộc kháng chiến kết thúc đường đột một năm sau ngày anh thay tên đổi họ. Anh chẳng còn cơ hội quay về bản Xíu vì vợ anh đã tìm anh đúng ngày các cánh quân chuẩn bị tiến về giải phóng Thủ đô. Nàng Đông ôm chặt lấy anh, vừa cười vừa khóc. Mai ngày, nàng sẽ sống với Nàng Nhỏ tại thành phố Hà nội. Còn anh? Số phận mỉm cười với anh lần nữa nên đơn vị anh sẽ đóng tại Hà đông, tỉnh lỵ Hà đông cách Hà nội có mười cây số, đạp xe không quá một giờ. Đối với họ, dường như cánh cửa thiên đường đã mở.

Tuy nhiên, ngày đầu tiên tới thăm hai người, An đã thấy không vui. Anh đi dọc theo cái hành lang dài và tăm tối đó, lòng tự hỏi vì sao người ta có thể xếp Nàng Nhỏ ở một ngôi nhà tầm thường như vậy? Tuy phía trên là ba gian phòng cao rộng, trang nhã kèm theo bếp và khu phụ riêng. Nhưng dẫu sao, nó vẫn chỉ là một gian gác của dân thường, nơi ăn chốn ở của bất cứ người dân sung túc nào ở thành phố. Nàng Nhỏ của anh là hoàng hậu. Liệu có bà hoàng hậu nào bị xếp một rọ, sống cùng với thứ dân? Hay vì chúng ta là dân Tày? Một bà hoàng hậu người Tày không được quyền đòi hỏi như một bà hoàng thuộc dân tộc chính thống?

Lòng ngổn ngang nhưng anh không nói. Bởi cả hai người đàn bà đều đang tột độ mừng vui. Chiến tranh đã kết thúc, mạng sống cầm chắc trong tay. Sau bao nhiêu ngày cách xa, giờ được đoàn tụ. Chẳng ai cầu mong điều gì hơn thế. Họ lại được cùng ngồi bên nhau,quanh một mâm cơm. Không phải trong ngôi nhà sàn rộng rênh thuở xưa, giữa bốn bề trập trùng rừng núi, mà trong một gian gác lịch sự nhưng nhỏ hẹp, là nơi ăn chốn ở của những người ở đô thành...

Sau bữa cơm, An hỏi Nàng Nhỏ:

- Chủ tịch có bằng lòng cho em ở đây không?

- Có chứ. Chủ tịch bảo chúng ta phải sống giản dị. Giản dị như những người bình thường.

- Vậy là em hài lòng, đúng không?...

- Dạ... Em hài lòng. Em yêu chủ tịch.

- Chủ tịch có yêu em không?

- Có chứ.

Nàng Nhỏ kêu to:

- Chủ tịch rất yêu em....

Và hai má nàng bỗng dưng đỏ tưng bừng:

- Chủ tịch là người chồng rất tốt.

Đêm ấy, trong vòng tay Nàng Đông, anh cất tiếng hỏi:

- Em hãy cho anh biết, Nàng Nhỏ của chúng ta có hạnh phúc thật sự hay không?

- Có. Anh đừng lo. Nàng Nhỏ của chúng ta vô cùng hạnh phúc. Tuy chủ tịch cao tuổi, nhưng vẫn còn là bạn gối chăn đắc lực.

- Sao em biết?

- Chúng ta là người miền núi, không có điều chi phải kiêng dè. Em đã hỏi thẳng Nàng Nhỏ của chúng ta về chuyện đó. Nàng đáp rằng với chủ tịch nàng hạnh phúc hơn là với người đàn ông đầu tiên.

- Ra vậy. Giờ anh có thể yên tâm.

Sự yên tâm của anh kéo dài được hai năm, cho dù thi thoảng anh vẫn lượn xe quanh khu nhà các tướng tá lẫn các bậc lương đống triều đình để quan sát họ. Càng nhìn họ, lòng anh càng hậm hực bởi các phu nhân người Kinh được ở biệt thự riêng, có vườn cây bao quanh, có lính gác cổng, có xe Volga đi chợ, cho dù họ mắt híp môi thâm, nếu đứng cạnh nàng Nhỏ của anh thì chẳng xứng mặt con hầu.

Rồi đến ngày đứa cháu gái đầu ra đời, hạnh phúc che mờ mọi nỗi bất bình cũng như các hiềm khích. Mỗi chủ nhật, An đạp xe ra thành phố với tâm trạng của đứa trẻ đi chảy hội hoặc của gã trai mới lớn đến gặp bạn tình. Lần này, anh lại được làm bố. Nàng Đông lại được làm mẹ. Không còn là bản Xíu. Họ không còn phải ninh cháo đậu và vắt sữa trâu. Đời sống đô thị bí bức hơn nhưng cũng thuận tiện nhiều bề vì thế cả hai người đều thấy tâm hồn phơi phới như cánh rừng sang xuân khi đứa bé khóc cười với họ. Trong lúc đó, người mẹ thật sự lười lĩnh ngủ hoài hoặc nhìn họ chăm sóc đứa con với đôi mắt tràn trề mãn nguyện.

An không bao giờ gặp chủ tịch tại ngôi nhà ấy vì anh chỉ có thể ở lại đến sáu giờ rưỡi tối ngày chủ nhật. Sau bữa cơm chiều, phải tính cho đủ thời gian đạp xe quay lại Hà đông trước hiệu kèn đêm. Giờ ngủ quy định là chín rưỡi. Anh biết rằng văn phòng phủ chủ tịch thường cho xe đón Nàng Nhỏ vào dinh nhưng thi thoảng và thường là đột ngột, khi thu xếp được công việc, chủ tịch đến thăm vợ con vào lúc nửa đêm và chính ông đặt tên cho đứa con gái. Một cái tên cổ xưa, đầy tinh thần đạo đức: Nghĩa.

Khi được thông báo về chuyện đó, An tỏ vẻ bực mình:

- Thiếu gì tên hay, sao lại đặt cho cháu tôi cái tên cứng ngắc như vậy? Trung đội của tôi có đến ba cậu tên là Nghĩa. Trần trung Nghĩa; Đào duy Nghĩa; Ngô thành Nghĩa ...

- Ồ, xin anh đừng giận.

Nàng Nhỏ tươi cười can gián:

- Con của chủ tịch mà.

Và vợ anh cũng tiếp lời:

- Em nó nói đúng đấy. Là bố mới có quyền đặt tên con.

An im lặng.

Nhưng tuần sau, anh bắt đầu gọi con bé bằng cái tên do chính anh tìm:

- Nó đẻ năm con dê nên tôi gọi nó là Mùi. Gọi thế cho dễ nuôi. Nào, Mùi lại đây với dượng.

- Ba ...ba...

Đứa bé đã nói được thành tiếng khi vừa tròn chín tháng. Con bé này lưỡi quá nhọn. Chẳng đứa trẻ nào có thể biết nói sớm như nó. Môi nó đỏ như gấc, mà nụ cười của nó giống hệt nụ cười của người cha.

Năm sau, khi Mùi đầy tuổi, anh mua một chiếc ghế mây, buộc vào dóng khung xe phía trước. Đặt con bé vào đấy, anh đèo nó đi chơi khắp các phố phường. Rất nhiều lần, hai dượng cháu diễu đi diễu lại trên đoạn đường chạy qua phủ chủ tịch. Đứa bé líu lô như sáo còn anh nhìn ngắm toà nhà đó như ngắm nhìn một toà thành bí ẩn hoặc một pháo đài ma. Và anh thầm nói với người đàn ông sống trong đó, phía sau những hàng rào đầy lính canh, sau những bức tường và những khuôn cửa không bao giờ thấy mở. Người đàn ông anh chưa từng gặp mặt, chưa bao giờ đối lời, nhưng vẫn tồn tại trong gia đình họ, tham gia vào mọi cuộc bàn cãi, trò chuyện, mọi kế hoạch cuộc đời của họ. Một sự tồn tại vô danh, vô tướng, vô hình. Không phải là bóng ma, cũng chẳng là con người đích thực:

" Này ông chủ tịch, liệu ông có nhìn thấy con gái ông ngồi trên chiếc xe cởi truồng tồi tàn này không nhỉ? Dầu ông là người có quyền lực cao nhất nước, ông cũng chỉ là anh em đồng hao với tôi thôi. Và bởi lẽ tôi lấy người chị, còn ông làm chồng cô em nên nếu ngồi vào mâm rượu chính ông sẽ phải rót rượu cho tôi trước.

Như thế đó, luật lệ của chúng tôi, những người Tày. "

*
* * *

Những năm sung mãn, những mùa sung mãn thường đến với con người một cách bất ngờ, ngoài sự chờ đón của họ.Vì thế, chẳng ai ngờ là khi con bé Mùi được mười một tháng, nàng Nhỏ đã lại mang thai lần thứ hai. Trước hết, Nàng Đông phàn nàn là con bé Mùi đi tướt cả tuần, uống thuốc nào cũng không cầm được. Sau đó, nàng Nhỏ bỗng mắc chứng thèm ngủ, ngủ ngay cả trong bữa ăn. Mọi người chưa kịp hiểu ra sao, bà già hàng xóm đã bảo:

- Thế này có nghĩa là mẹ nghén nên con bú sữa độc ...Trẻ bú sữa độc thì chẳng thứ thuốc nào cầm nổi. Tại sao chẳng ai biết chuyện này?

- Ồ....Chẳng ai biết thật.

Nàng Đông đáp. Bởi chưa ai từng qua cảnh này để hiểu được sự tình. Vậy là con bé Mùi phải cai sữa tức khắc. Thật may mắn là nó rất ngoan, chỉ qua hai đêm khóc hờn rồi sau đó quay sang ăn bột và bú sữa bình thun thút. Vả chăng, từ thuở mới lọt lòng nó đã ngủ với Nàng Đông, nó quen hơi dì còn hơn hơi mẹ đẻ. Người ta bảo con đầu thường ngơ ngẩn,dại khờ. Nhưng con bé Mùi khôn lạ. Chiều thứ bẩy, cứ lặn mặt trời là nó ra ban công ngong ngóng chờ dượng Thành. Dòng người cuồn cuộn trên phố xá không làm con bé nhầm lẫn. Nhiều khi nó giơ tay vẫy anh khi anh đang còn dừng xe trước đèn hiệu đỏ ở ngã tư. Chiếc xe đạp Vĩnh Cửu đen xì không thanh chắn bùn của anh chính là con ngựa quen thuộc của đứa bé, hứa hẹn biết bao cuộc dạo chơi kì thú. Khi tới nơi, dắt xe lên vỉa hè, ngước lên ban-công anh đã thấy nó cúi xuống mỉm cười nụ cười thiếu nữ, gương mặt rạng rỡ và đôi mắt đen ngời lên ánh sáng. Nhiều khi, An giật mình vì tưởng như đang còn ở bản Xíu. Vào những buổi chiều thời xa xôi ấy, khi anh và nàng Đông đi củi về, Nàng Nhỏ đứng đầu sàn chờ đợi cũng cười nụ cười im lặng và rạng rỡ như con bé giờ đây. Kỉ niệm mới chồng lên kỉ niệm cũ. Dấu vết yêu thương điệp lên nhau, hoà trộn cùng nhau trong trái tim anh. Cứ như thế cuộc sống êm đềm của họ tiếp diễn cho đến ngày Nàng Nhỏ sinh đứa con thứ hai, vào năm Thân. Năm Bính Thân. Vào một chiều thứ bẩy, khi anh vừa bước chân vào nhà, Nàng Đông chạy ùa ra ôm cổ anh và với vẻ mặt vừa hãnh diện vừa ẩn giấu một vẻ long trọng bí ẩn, thầm thì báo tin:

- Một đứa con trai. Nặng ba cân sáu. Dài năm mươi tám phân.

- Ồ, như thế là tốt, có nếp có tẻ.

Anh đáp.

Nàng Đông đứng ngẩn ra nhìn anh trong giây lát rồi bảo:

- Anh nói thật tức cười.

- Sao? Anh nói điều gì sai trái hay lầm lẫn mà khiến em tức cười?

- Không sai trái cũng không lầm lẫn.

Vợ anh tủm tỉm nhìn anh:

- Nhưng không phải chỉ là nếp với tẻ. Anh quên rằng một đứa con trai là vô cùng quan trọng với người làm cha.

- À...Anh hiểu.

Anh cũng tủm tỉm cười và đáp lại Nàng Đông:

- Anh hiểu tầm quan trọng của kẻ nối dõi tông đường. Từ giờ trở đi anh nhường cho em nuôi dưỡng thằng bé, nhân vật quan trọng, còn anh sẽ chăm sóc con Mùi, vì con bé ít quan trọng hơn.

- Thế anh có vào viện thăm Nàng Nhỏ không?

- Không....Ngày mai anh sẽ đi chợ nấu cơm và đưa con Mùi lên bách thảo xem hổ, xem gấu. Vào viện sẽ là việc của em.

An không hiểu vì sao anh có phản ứng như vậy. Anh còn nhớ đôi mắt tròn xoe kinh ngạc của vợ nhìn mình. Cái nhìn ấy dán vào lưng anh khi anh đi vào gian buồng bên trong. Cái nhìn ấy ám ảnh anh như một câu hỏi câm lặng. Một bài toán không có lời giải đáp...Mãi về sau này anh mới hiểu rằng linh giác đã chỉ dẫn những hành vi của anh...Rằng anh đã cảm thấy bóng đen âm u của loài ác điểu xòe ra trên đầu họ vào thời khắc mà Nàng Đông báo tin cho anh, một cái tin lẽ ra phải đem lại niềm hân hoan tột độ cho tất thảy mọi người...Ngày hôm sau, chủ nhật, anh đèo con Mùi lên vườn Bách thảo. Lúc quay về, con bé đòi đứng lại trước phủ chủ tịch xem...mấy chú lính gác. Anh đành xuống xe, dựa pê-đan lên vỉa hè xi-măng để chiều nó. Nhưng họ vừa đứng được vài phút, lính gác đã ra hỏi giấy tờ. An xuất trình thẻ quân nhân. Người lính xem xét kĩ càng rồi nói:

- Đây là khu vực cần bảo vệ. Đồng chí nên đưa cháu ra nơi khác mà chơi.

- Tôi đâu có muốn làm phiền các đồng chí? Chỉ do trẻ nó đòi thôi.

Lúc ấy, chính đứa bé cất lời:

- Cháu xem. Cháu xem các chú bộ đội...

Con bé líu lô. Có lẽ vì lời trẻ bi bô làm người lính mềm lòng nên anh ta lui gót. Tuy nhiên, con tim An đã trở nên âm u. Anh nhìn vào toà nhà bên trong những rặng cây xén tỉa:

" Sung sướng gì khi người cha sống trong lâu đài còn đứa con ngồi trên chiếc xe đạp cởi truồng và nhìn vào với đôi mắt thèm khát? Có ích gì cuộc tình éo le này? Nếu Nàng Nhỏ của chúng ta chẳng lọt vào mắt vị vua già, nó ắt phải kiếm được tấm chồng xứng đôi vừa lứa. Trên miền quê, chúng ta đâu thiếu cảnh ấm êm? Ngôi nhà sàn của ta cao rộng gấp ba lần những ngôi nhà chật hẹp nơi phố xá. Chưa kể nhà ông già bố vợ, cả xưởng cưa đặt lọt thỏm vào một gian? Chúng ta có đất, có trâu đàn, có lợn bầy. Gà hàng trăm con đẻ trứng ăn không kịp. Chúng ta có rừng có suối, có ong dại ong nuôi và thú săn. Đành rằng ở đây cuộc sống tiện lợi và văn minh hơn nhưng đất đai eo hẹp và lòng người cũng eo hẹp. Phải chăng cuộc ra đi của chúng ta là một sai lầm?"

Dòng suy nghĩ chưa chấm dứt, một người khác từ vọng gác đã tiến lại phía họ. Lần này, hẳn là sĩ quan phụ trách nhóm lính. Anh ta buông từng lời một cách khô khan:

- Đây là khu vực cần nghiêm mật bảo vệ, yêu cầu đồng chí đưa trẻ đi nơi khác.

Không đáp nửa lời, An quay xuống bảo cháu:

- Không đứng được ở đây con ạ. Dượng đưa con ra chợ Ngọc Hà rồi mua cho con quả bóng. Con nghe rõ chưa?

Rồi anh trèo lên xe, đạp đi luôn. Phía sau lưng , hẳn anh chàng sĩ quan phải đưa mắt nhìn theo một cách bực tức. Trong thâm tâm, An biết rằng thái độ của anh vô lý bởi những gã lính kia cũng như anh, họ phải thi hành một phận sự, một mệnh lệnh giáng xuống từ những kẻ đứng cao hơn. Nhưng dẫu sao, con tim anh cũng không ghìm được cơn phẫn nộ:

" Này ông? cha đẻ của đứa bé đang ngồi trong lòng tôi đây

- Anh thầm nói với người anh em đồng hao chưa từng gặp mặt

- Liệu ông có mường tượng ra cảnh này? Một đứa con đứng trước ngôi nhà của cha đẻ mà không có quyền vào cũng chẳng có quyền ngắm nghía. Một đứa con bị đuổi khỏi cổng ngôi nhà cha nó đang là chủ nhân? Liệu cảnh trớ trêu này có khiến ông động tâm, ngài chủ tịch? Giờ đây, con gái ông còn quá nhỏ để hiểu sự tình. Nhưng mai đây, khi khôn lớn, liệu nó có thể coi ông là một người cha tử tế hay chỉ là kẻ vô tâm buông quăng bỏ vãi những hạt máu của chính mình? Cái dinh thự nguy nga kia liệu không có nổi một gian phòng cho vợ con ông trú ngụ hay vì một cơn cớ thầm kín, đen tối nào đó mà ông chấp thuận cho Nàng Nhỏ của chúng tôi ăn ở chen chúc lẫn lộn giữa đám thứ dân? Phải chăng vì hoàng hậu là người miền núi nên nàng buộc chịu cảnh ngược đãi của triều đình? Cái triều đình thường ban bố các loại chiếu chỉ: Ưu đãi người thiểu số ! "

Những ngờ vực, giận dữ đã chôn vùi bấy lâu trong đáy sâu tâm hồn anh bỗng trồi lên. Những lời nguyền rủa cũng vậy, chúng ào ào mọc lên trong óc não anh như rừng măng vầu măng trúc lúc sang xuân. Anh không nhận ra rằng anh đã đạp xe vòng trở lại đường Hoàng Diệu để nhìn ngắm như ghi, như khắc hình ảnh những dinh thự nguy nga, vườn bên phải ,vườn bên trái, sân trước sân sau của các vị rường cột triều đình. Sau đó, anh lại tiếp tục đạp theo đường Phan đình Phùng để nhìn lại những biệt thự khác, mà anh đã thuộc lòng tên chủ nhân của chúng, để nỗi oán hờn căm giận tiếp tục ngoi lên từ con hồ lặng lẽ trong tâm hồn anh.

" Đây là nơi dành cho các phu nhân mắt híp, môi thâm chứ chẳng dành cho Nàng Nhỏ của chúng ta, cho dù nàng muôn ngàn lần xinh đẹp. "

Anh thầm nghĩ với nỗi cay đắng, khi thấy một bà bộ trưởng ngồi trong chiếc Volga vụt qua mặt anh, cổ rụt xuống vì những lăm thịt dâng lên tận cằm và cặp mắt ti hí nhỏ như sợi chỉ nhìn phố phường với vẻ ngạo nghễ. Chiều hôm đó trời rất đẹp nhưng anh chìm đắm trong những suy tưởng u ám mà không có cách nào thoát ra được. Anh thương con bé Mùi? Anh thương Nàng Nhỏ? Hay anh cảm thấy sự bất lực của mình trước cuộc cờ số phận? Mãi đến bữa cơm tối, khi vợ anh từ bệnh viện trở về với vẻ mặt hớn hở của trẻ bắt được quà anh mới tạm quên đi những dằn vặt chua xót.

Nàng Đông bảo:

- Ba hôm nữa chúng ta đón Nàng Nhỏ về nhà. Như thế em không còn phải mang cơm vào viện.

- Sức khoẻ của nó có tốt không?

- Của ai? Nàng Nhỏ hay thằng bé?

- Nàng Nhỏ.

Vợ anh cười:

- Nàng Nhỏ khoẻ và vui. Nhưng em thấy là anh trọng nữ khinh nam. Anh chẳng hỏi han gì thằng bé.

Anh bật cười theo:

- Bởi vì cả xã hội đã trọng nam khinh nữ rồi nên anh đành làm ngược lại. Em không thích như thế hay sao?

- Em thích.

Vợ anh đáp lại tức khắc. An biết rằng Nàng Đông vô cùng hạnh phúc với anh. Mối tình của họ bắt đầu từ thuở lên năm, nếu nói cho thật đúng là tình con trẻ. Và tình yêu đôi lứa khởi sự ở tuổi trăng rằm. Tình yêu thơ dại kết nối với hơi thở nồng đượm của tuổi ái ân, như một dòng chảy không ngưng cạn. Anh lại là người phóng khoáng, chẳng câu nệ việc của cải, cũng không quá tha thiết với kẻ nối dõi tông đường. Những năm đèn sách ở huyện đã đem lại cho anh lối nhìn cuộc sống khác hẳn những người đàn ông cùng thời đại. Điều đó giống như một thứ quà tặng được ban phát từ bàn tay đấng toàn năng. Nhiều lần, vợ anh nói:

- Ôi, thật may mắn sao là chúng ta ở hai bên một sườn đồi.

Và anh đáp lại rằng:

- May mắn rằng ngày anh ra đời lại có một cô hàng xóm chờ sẵn.

Nàng Đông vặn hỏi:

- Thế nghĩa là anh chê em già hơn anh mười lăm ngày?

Anh bảo:

- Cho dù em có ra đời trước anh mười lăm năm em vẫn là vợ anh. Số kiếp đã định như thế.

- Chao ôi !...

Vợ anh kêu lên:

- Anh là người nói khoác giỏi nhất trần gian.

Mọi cuộc chuyện trò của họ đều kết thúc bằng tiếng cười. An chưa từng thấy cặp vợ chồng nào gắn bó với nhau theo kiểu ấy. Thời họ còn trẻ, anh chẳng mảy may ngờ vực hạnh phúc của mình. Nhưng sau ngày đứa con trai của Nàng Nhỏ ra đời, một linh cảm âm u thường xuyên lởn vởn trong óc não anh, ngay cả những khoảnh khắc vui vẻ nhất. Anh thường nhớ lại những danh ngôn học được từ ông thầy dạy sử, người anh chịu ơn nhiều nhất trong những năm đèn sách ở huyện Thất Khê.

" Những mỹ nhân cũng giống loài hoa rực rỡ, sớm nở tối tàn ; bởi trời xanh đã ban cho họ một nhan sắc lộng lẫy khiến bao kẻ phải thèm khát, ghen tuông, trời cũng sẽ tước đi của họ một phần đời sống. "

Nhan sắc hai chị em Nàng Đông càng ngày càng trở nên rực rỡ đến chính anh cũng ngạc nhiên. Thời gian không chạm được đến họ, ngược lại , năm tháng khiến cho vẻ đẹp của họ thuần thục hơn, quyến rũ hơn, thần bí hơn. Đã nhiều lần An chứng kiến những kẻ qua đường dừng lại, sửng sốt nhìn hai nàng như nhìn những nữ thần sông, thần núi hiện hình. Ở đất thủ đô này, đốt đuốc giữa ban ngày cũng không thể tìm được một thứ nhan sắc chim sa cá lặn như vậy. An hiểu rằng thứ nhan sắc ấy chỉ có thể được tạo ra trên vùng đất quê anh ; nơi không khí thanh sạch đến độ người ta có thể nhìn mọi vật như nhìn một thứ pha-lê vào những ngày tạnh sương mù hay mưa núi ; nơi những rừng hoa mận nở trắng xoá lúc sang xuân ; nơi những thác hoa kim ngân tuôn chảy triền miên dọc theo các dòng suối mùa hè ; nơi hoa tím điệp vào sắc lèn đá tiết thu muộn ; nơi quanh năm các loài ong rù rì, múa lượn và cho thứ mật màu hổ phách ngào ngạt phấn hoa ; nơi khe, suối trong veo chảy giữa các bờ đá tắm táp không ngừng da thịt con người và tưới nhuần những vùng ruộng bậc thang...Những mỹ nhân của bản Xíu lớn lên trong vùng trời ấy, hít thở bầu không khí ấy, được nuôi dưỡng bởi thứ mật ong rừng hoà trộn hàng trăm loại phấn hoa dại, bởi sữa trâu và các loại gia cầm gia súc đất nhà. Da họ mơn mởn như trái đào, mắt họ trong như pha-lê, cái nhìn của họ thăm thẳm như vực sâu, như hang núi. Chẳng cần son môi họ cũng đỏ chon chót như trái ớt chín và sau màu đỏ rồ dại ấy, chứa chất và hứa hẹn biết bao lạc thú. Dường như An đã yêu Nàng Đông từ thuở lọt lòng. Nơi quê họ, dân bản sống theo kiểu người cùng một đại gia đình, không có chuyện tranh cướp tình ái. Mãi sau này, anh mới biết rằng chắc chắn vợ anh đã gieo rắc vô số những mơ mộng và ham muốn nơi những người đàn ông, dọc đường nàng đi. Và như thế, anh cũng hiểu vì sao vị vua già say đắm Nàng Nhỏ. Khó có người đàn ông nào đứng vững nổi trước những người đàn bà mà cùng một lần, nhan sắc của họ giống như lưỡi gươm bén, nhưng tâm hồn bình dị và thánh thiện của họ hứa hẹn một tổ ấm miên viễn, một đời sống lứa đôi ấm áp không đòi hỏi nhiều hao tổn óc não cũng như tâm cơ. Dù Nàng Đông chẳng mảy may ý thức về điều đó, nhưng An biết anh đang thống lãnh một thành trì. Để bảo vệ thành trì đó, cần có trí thông minh lẫn lòng dũng cảm. Niềm kiêu hãnh trong tâm hồn anh luôn pha trộn sự cảnh giác. Đối với Nàng Nhỏ, liệu vị vua già có cùng suy nghĩ như anh?Hoặc là ỷ thế làm vua, thay vì trân trọng một mối tình hiếm hoi như thế, ông ta tự cho mình quyền coi mỹ nhân như một thứ sơn hào hải vị?

Những suy tư ảm đạm ấy, anh không dám thổ lộ cùng ai, anh không muốn làm phiền muộn hai người đàn bà, những người anh yêu quý hơn chính bản thân mình. Anh trở thành kẻ im hơi lặng tiếng trước những cuộc chuyện trò rối rít niềm vui và hy vọng của họ:

- Em sẽ vào dinh chủ tịch ngày mai chứ?

- Vâng. Văn phòng đã lên lịch vào ngày mai. Lái xe sẽ tới đón em lúc chín giờ.

- Em đã chuẩn bị kĩ những điều cần nói chưa?

- Em không cần chuẩn bị nhiều. Em chỉ nói một câu đơn giản thôi: Vì đã có đủ con trai lẫn con gái, chúng ta cần được chính thức hoá trước pháp luật.

- Được rồi, ngày mai sẽ là ngày bận rộn. Chị sẽ nấu cơm sớm lên một chút và em nhớ cho thằng bé bú lúc tám giờ.

Ngày hôm sau chính là chủ nhật. An đưa con bé Mùi đi chơi từ mười giờ sáng, dặn hai người đàn bà rằng anh sẽ về muộn. Buổi trưa, anh dắt cháu vào cửa hàng ăn phở rồi đưa nó đi xem xiếc vào ca ba giờ chiều. Tan cuộc, hai dượng cháu ra về khi mặt trời đã tụt xuống phía sau các mái nhà phía tây thành phố. Con bé nằm lăn ra ngủ còn anh ăn cơm vội vàng rồi đạp xe vào doanh trại, không hỏi han một lời về cuộc gặp gỡ quan trọng của Nàng Nhỏ với người cha của những đứa con nàng. An vẫn nhớ cái nhìn dò hỏi của vợ anh trong lúc nàng đang là quần áo cho cô em. Còn Nàng Nhỏ, quá bận bịu về đứa con trai nên không để tâm đến sự im lặng bất thường của anh. Hoặc là, trong tâm trạng tràn trề hạnh phúc và các dự phóng tương lai, nàng chẳng quan tâm đến ngoại cảnh...Trên đường vào Hà Đông, An đã tự trách mình về sự lãnh đạm kì dị đó. Nhưng ngoài mọi lý lẽ, một nỗi buồn vô cớ cắn xé anh. Một nỗi buồn bất khả cưỡng chế và bất khả lý giải. Ngày nối ngày trôi qua nặng nề. Dù ở trong lớp huấn luyện hay ngoài thao trường cùng lính, An cũng có cảm giác là anh đang sống trong mộng, dường như chân anh không bước trên mặt đất mà bập bõm trong mây. Vì sao? Anh không hiểu. Đôi lúc, trí nhớ gọi anh về bản Xíu, với ánh hồi quang của những ngày hạnh phúc. Đôi lúc, trí nhớ dắt anh về lại thị trấn Thất Khê, trong mái trường mà anh đứng lênh khênh giữa đám học trò như con ngỗng đứng giữa bầy vịt. Hoặc là, anh thấy lại ngôi nhà thơm phức mùi chè của ông thầy dậy sử, bởi vợ ông bán chè mạn nên anh thường đến ngồi đóng gói chè giúp đám con cháu trong nhà, tiện thể nghe ông kể đủ thứ dã sử cũng như chính sử , của triều đình Tàu cũng như triều đình ta, nghe Tam quốc chí và Đông Chu liệt truyện đến thuộc làu làu. Đôi lúc, anh cảm thấy con tim se sắt mà chẳng rõ cơn cớ vì sao, nhưng chắc chắn có một nỗi lo âu mơ hồ nào đó giăng mắc xung quanh như tấm lưới nhện khổng lồ.

Tới thứ bẩy, sau giờ luyện quân, An vồ lấy xe đạp. Nhưng rủi ro là vừa đi được vài trăm mét săm trước nổ tung nên anh đành phải tìm quán vá. Người thợ chìa trước mắt anh cái săm chằng chịt mụn vá, chỗ phồng chỗ tẹt như khúc dồi lợn luộc vụng:

- Xin kiếu đồng chí. Chẳng còn đất vá nữa. Nhất thiết phải thay săm mới thôi.

- Xin bác cố gắng giúp. Chúng tôi chưa đến thời hạn được phân phối săm lốp.

- Tôi xem kĩ rồi. Tôi đã chịu thì chẳng ai dám mó tay vào nữa, bảo đảm là như vậy.

Không có cách nào hơn là dắt xe quay về doanh trại, mượn chiếc xe chở thực phẩm của cấp dưỡng. Ai cũng biết rằng xe cấp dưỡng là thứ xe được ưu tiên hàng đầu nên săm lốp luôn luôn mới. Tổ cấp dưỡng cho anh mượn xe với điều kiện phải trả đúng trưa hôm sau để họ còn kịp đi chợ chiều. Cò kè năn nỉ một hồi, An kéo được giờ mượn xe tới ba rưỡi chiều, như thế anh còn đủ thời gian đèo con bé Mùi đi xem ca múa nhạc ở Cung thiếu nhi thành phố. Hài lòng vì thắng lợi, An hối hả đạp xe về Hà nội. Khi anh đến nơi, phố xá đã lên đèn. Con bé Mùi không đứng trên ban-công chờ đón anh như thường lệ. Chắn chắn vì anh tới muộn. Anh thầm nghĩ rồi dắt xe qua cái hành lang dài dặc và thiếu sáng, chào hỏi ba người lính mặc thường phục mà anh đã quen. Ở trong sân, anh nhận ra con bé Mùi đang ngồi chơi đồ hàng với hai đứa bé khác, cháu ngoại bà già hàng xóm. Thấy anh, con bé chạy ùa ra đu lấy cổ dượng, hôn chi chít lên hai má. An muốn bồng con bé lên nhà, nhưng bà già hàng xóm đã bảo:

- Bác cứ để cháu ngồi chơi ở đây...bác gái dặn tôi như vậy...

Nghe tới đó, An đã thấy tim anh đổi nhịp:

" Có chuyện gì đặc biệt xảy ra mà bắt con bé ngồi đây chơi vào giờ này?.. "

Nhưng anh không tiện hỏi bà già nên đành để con bé quay lại chơi với bạn rồi lên gác. Hai người đàn bà ngồi chờ anh bên mâm cơm. Nhìn vẻ mặt họ, anh hiểu một nửa phần sự thật. Nhưng anh lại cất tiếng cười:

- Anh để mọi người chờ lâu quá. Sắp lả đi vì đói rồi phải không? Chờ anh rửa mặt xong ta ăn cơm. Hôm nay phải mượn xe cấp dưỡng vì nổ săm.

- Xe công của quân đội mà cũng không đủ săm dùng hay sao?

Vợ anh hỏi.

- Xe công nào cũng chịu chỉ định phân phối săm lốp. Mà phân phối thì từ may-ô, quần đùi đến cơm gạo, thực phẩm đều không đủ dùng. Hôm nay, các em cho anh ăn món gì vậy?

An chuyển chủ đề.

Nàng Đông tiếp lời anh:

- Hôm nay em làm món nộm chuối với thịt luộc chấm mắm tép của người Kinh.

- Bữa sau, anh đề nghị em nấu món phở chua cổ truyền.

- Người ta bảo phở chua Lạng sơn ngon hơn phở chua Thất Khê quê mình vì họ cho thêm vào nước dùng hương liệu. Ngoài hành khô nướng, gừng nướng, chi quế, hoa hồi, còn một vài thứ nữa coi như bí mật nhà nghề. Nếu anh muốn, hôm nào rảnh em ra phố hàng Mắm ăn thử. Ăn dăm ba lần khắc tìm ra công thức.

- Nếu vậy, em thử xem sao. Phở chua Lạng sơn đã từ lâu có tiếng.

Nhờ cuộc đối thoại ấy, họ có thể tạm quên đi mọi chuyện và kết thúc bữa cơm. Nhưng đến tuần trà, anh biết rằng không thể nào tiếp tục vờ vĩnh vui vẻ. Cái lưới nhện khổng lồ vô hình vây quanh họ đang thít lại những mắt lưới hung hiểm của nó. Anh là người đàn ông, bậc gia trưởng, anh phải là người trước tiên đề cập đến sự thật:

- Nào, bây giờ đến chuyện của chúng ta. Anh chờ nghe đây.

Nàng Nhỏ vẫn im lặng nhưng vợ anh lên tiếng:

- Chủ nhật, em nó thưa chuyện với chủ tịch. Chủ tịch đồng ý nhưng còn phải chờ ý kiến tập thể của bộ chính trị. Ngay thứ hai, vấn đề được đưa ra bởi đó chính là ngày có cuộc họp định kì. Nhưng ý kiến của chủ tịch không được chấp thuận. Không có một phiếu chấp thuận.

- Vì lý do gì?

- Vì họ không muốn chủ tịch có gia đình riêng. Vì họ muốn rằng chủ tịch chỉ là vị cha già của dân tộc thôi. Vì....Vì....đấy là nghị quyết của bộ chính trị.

- Họ buộc chủ tịch phải chấp thuận ý kiến của họ? Hay chính chủ tịch muốn tuân phục họ?

Tới đấy, Nàng Đông im lặng. Hẳn vợ anh không thể trả lời. Và Nàng Nhỏ cũng thế thôi. Nhưng An vẫn muốn đi đến tận cùng sự việc . Anh hỏi Nàng Nhỏ:

- Em gặp ông cụ vào ngày nào sau cuộc họp đó?

- Thứ sáu. Khoảng mười một giờ chủ tịch cho xe đến đón em.

- Ông ấy giải thích ra sao?

- Chủ tịch nói rằng trên nguyên tắc của đảng, thiểu số phải phục tùng đa số. Huống chi trong trường hợp này tất cả bộ chính trị đều quyết định như vậy.

- Ông ấy còn nói gì nữa?

- Chủ tịch nói rằng chủ tịch biết em chịu rất nhiều thiệt thòi....rằng chúng ta phải kiên trì sống trong bóng tối một thời gian nữa chờ thời cơ thuận tiện để thuyết phục các uỷ viên bộ chính trị.

- Khi nói những lời lẽ ấy, vẻ mặt ông ấy ra sao?

- Em không nhớ. vì em cúi xuống lau nước mắt.

- Ông ấy cười hay ông ấy khóc?

- Chủ tịch cũng khóc. Chủ tịch ôm em, nói rằng: Họ thật thiếu tình, họ không thông cảm cho hoàn cảnh của chúng ta.

- Chúng ta ở đây bao gồm những ai?

Nàng Nhỏ ngước mắt nhìn anh, vẻ như không hiểu điều anh muốn nói. Lúc đó, An bình tĩnh lại và tự trả lời mình:

- Chúng ta ở đây nghĩa là ông ấy với em và hai đứa nhỏ. Nói một cách thông thường bốn nhân mạng trong một gia đình. Nếu là một gia đình bình thường thì đó là một gia đình đầy đủ.

Và trong lúc đó, một câu nói chua chát khác vang lên trong trí não anh:

" Nhưng rủi ro thay còn một thứ " chúng ta" khác. Chúng ta này là cái tập thể tí hon bao gồm anh và vợ anh và em, ba nhân mạng liên quan tới nhau không thể tách rời. Một liên quan sống còn, mật thiết. Mối liên quan này nằm ngoài sự nhận biết cũng như mối quan tâm của chủ tịch. Nhưng điều trớ trêu là mọi quyết định liên quan tới cuộc đời của ông ta sẽ giáng lên đầu chúng ta như những lưỡi gươm của số phận. Chẳng phải vinh hoa phú quý mà chắc chắn sẽ là mất mát khổ đau. Những linh cảm đã không lừa dối ta."

Anh nhìn đôi mắt u buồn của Nàng Nhỏ, tim thắt lại. Anh biết làm gì bây giờ? Anh biết làm gì để cứu vãn tình thế, để che chắn những người thân yêu của mình trước cơn gió dữ? Anh, người đàn ông duy nhất trong cái gia đình bé nhỏ này? Tại sao số phận xô đẩy họ đến đây? An cảm thấy nghẹt thở, anh vùng đứng dậy đẩy hai cánh cửa sổ mở trông xuống sân, rồi quay lại, cất tiếng:

- Này em. Giờ đây chúng ta phải bình tĩnh suy xét. Anh chưa hiểu rõ ý đồ của tập thể bộ chính trị. Trước đây đọc sử anh vẫn thường thấy các triều đình cảnh tỉnh khi một vị vua quá yêu chiều một quý phi. Nhất là khi vua già còn quý phi lại đang mơn mởn xuân thì. Sự lo lắng của các bậc lương đống quốc gia là dựa trên những kinh nghiệm đồi bại trong lịch sử. Đường minh Hoàng mê đắm Dương quý phi. Trụ Vương mê say Đát Kỉ. Ở nước ta chúa Trịnh Sâm say đắm cung phi Đặng thị Huệ. Nhưng những trường hợp này hoàn toàn khác biệt tình cảnh của chúng ta. Những người đẹp của các vua Tàu sống xa hoa trên lụa là châu báu. Mỗi bước đi của Dương quý Phi đạp lên một đoá sen đúc bằng vàng. Lâu đài của Đát Kỉ phủ đầy gấm vóc và mỗi bữa ăn của nàng ta đáng giá hàng trăm lượng bạc. Đến chiếc xe ngựa của quý phi cũng nạm ngọc dát vàng từ dưới đệm lên mui. Còn cung phi Đặng thị Huệ ở xứ ta đã ỷ thế được chúa yêu, thả sức nhũng lạm vàng bạc, đưa vô số người thân vào phủ chúa và bao che cho đứa em trai hung tàn bạo ngược là Đặng mậu Lân. Mậu Lân đi đến đâu cướp bóc tài sản của lương dân ở đấy. Gặp bất cứ người nào, dù là đàn bà hay con gái, hễ vừa mắt là sai lính quây màn giữa đường giữa chợ hãm hiếp người ta một cách thoả thuê...Kẻ nào trái ý chém chết ngay tức khắc. Sự hung tàn bạo ngược của y khiến cho lê dân cũng như các trung thần trong triều muôn ngàn lần phẫn nộ. Bao nhiêu sớ dâng lên đề nghị vua trừng trị Mậu Lân đều bị Đặng phi sai người xé đốt. Sau cùng, một võ quan đã chém chết y rồi tình nguyện trói thân quay về chịu tội trước Trịnh Sâm. Xét trên cả ba trường hợp đó, chúng ta chẳng liên quan gì đến sự xa hoa cũng như bạo ngược. Chúng ta sống nơi đây như những thứ dân dưới mức trung bình. Anh là người đàn ông duy nhất trong gia đình này, chưa từng cướp bóc hãm hại ai. Những đứa con của em ra đời trong một bệnh viện bình dân nhất, chẳng có lương y triều đình cũng không có thầy thuốc của phủ chủ tịch. Con bé Mùi và em nó lớn lên như mọi đứa trẻ con thuộc các gia đình công nhân hay cán bộ sơ cấp. Chúng ta chưa từng có một chút lợi quyền nào. Chúng ta cũng chưa từng xâm phạm đến tài sản hay quyền lợi quốc gia. Cớ sao họ có thể đối xử với chúng ta như vậy?

Chẳng ai trả lời anh. Cả hai người đàn bà cúi đầu sùi sụt khóc. An hiểu rằng không ai có thể trả lời anh, trừ phi có một ông Trời và một khi ông Trời này động lòng từ ái trước tình cảnh của họ. Nhưng anh chưa bao giờ nhìn thấy một ông trời. Những thánh thần hoặc vong linh tiền nhân mà họ thờ cúng luôn luôn chỉ là những làn khói phất phơ bay trên bàn thờ ngày lễ tết, và dường như mùi thơm của nhang trầm chính là sự hiện diện gần gũi nhất mà anh có thể cảm nhận. Giờ đây, anh biết tìm trời ở đâu?

- Liệu em có dám hỏi thẳng ông cụ những điều anh vừa nói hay không?...

An dằn giọng. Nàng Nhỏ khóc to hơn. Những cơn nức nở dồn dập hơn. Vợ anh ngước nhìn anh với cái nhìn van vỉ. Cơn giận dữ tiếp tục trào lên trong anh như một nồi cháo sôi trên ngọn lửa cháy quá đà:

- Nàng Nhỏ, em cần phải hỏi ông cụ cho rõ ràng. Vì cuộc sống của em, và cuộc sống của những đứa con em.

- Em cũng đã hỏi nhưng chủ tịch nói rằng chủ tịch cần phải sống gương mẫu. Rằng nếu em yêu chủ tịch thì phải chấp nhận điều ấy. Rằng khi những đứa trẻ lớn lên tình thế sẽ đổi thay.

- Khi những đứa trẻ lớn lên?...

Anh hỏi lại và không chờ đợi câu trả lời:

" Chao ôi, giờ ông ta đã hơn sáu mươi tuổi. Liệu chúng ta phải chờ ông ta đủ bát tuần để có thể sống một cách chính thức với thiên hạ hay sao? Chua chát thay cho Nàng Nhỏ của ta ! Chua chát thay cho thân phận những đứa con của một vị vua già ! Những đứa cháu của ta, những đứa trẻ dù muốn hay không cũng liên đới với ta bởi sợi dây của tình ruột thịt. "

Rồi một câu hỏi khác ập đến mà anh không thể ghìm nén:

- Này em, em có thật sự yêu ông ta không?

Nàng Nhỏ nhìn anh với cái nhìn ngơ ngác:

- Anh hỏi gì?

- Anh muốn hỏi rằng em thật sự yêu ông ta hay em yêu ông ta chỉ vì ông ta là chủ tịch nước?

- Em yêu chủ tịch....Em yêu...

Nàng đáp lại rồi oà lên trong một cơn nức nở dữ dội hơn. Nàng Đông đưa mắt nhìn anh giận dỗi:

- Anh làm sao vậy? Anh bị con mòng hay con rít cắn phải không?

- Ồ không.

An đáp lúng búng. Anh chợt nhận ra rằng cơn tức giận đã xô anh đi quá đà. Có lẽ anh mong muốn cho em anh có một số phận khác. Nhưng sợi dây oan nghiệt của định mệnh đã cột trói nàng với vị vua già, vị vua già mà nàng lại trót yêu. Tình yêu cắc cớ trớ trêu đến như vậy. Trước đây anh vẫn hồ nghi, giờ anh hiểu Nàng Nhỏ có thể yêu ông ta thật sự. Không phải vì ông ta quyền cao chức trọng mà trước hết bởi ông ta là người chồng tốt, dù chỉ làm chồng trong những khoảnh khắc bị cắt rời.

" Lão già này hẳn là bẻm mép, giỏi tán gái? "

Anh nghĩ, nhưng ngay tức khắc anh hiểu rằng ông vua già chẳng phải kẻ bẻm mép mà ông ta thật sự giỏi; rằng ông ta có thể làm Nàng Nhỏ siêu lòng bởi những lời lẽ ngọt ngào đằm thắm mà tất thảy những gã đàn ông trẻ trung hơn không biết nói, rằng ông ta có thể khiến nàng say đắm bởi những cử chỉ âu yếm đường mật mà người bản xứ chẳng biết cách thể hiện, những thứ cung cách văn hoá xa lạ mà ông ta học được ở phương tây. Cái sức mạnh đó không giống sức mạnh của người thợ săn giương súng lên ngắm con mồi, bởi nó không nhằm chiếm đoạt những con mồi mà nó nhằm chiếm đoạt những con tim. Cái sức mạnh đó vô hình vô dạng nhưng anh cảm nhận được một cách rõ ràng tựa hồ anh nhìn thấy ngọn lửa cháy, những hạt sương ban mai hay hoa nở trên các triền núi. Cái sức mạnh ấy, chính anh từng cầm nắm trong tay. Hồi ức dẫn anh quay lại những buổi tối ấm áp nơi bản Xíu, khi anh trở về từ thị trấn Thất Khê. Ngôi nhà sàn thênh thang bập bùng ánh lửa và chen chúc láng giềng. Chú anh chuẩn bị sẵn một hũ rượu lớn, những mâm gỗ sâu lòng chất đầy đồ nhắm mặn lẫn bánh trái và hoa quả. Thím anh rang đầy một thúng hạt hướng dương rồi sắp sẵn trà đường đãi khách. Dân bản, già cũng như trẻ, ngồi vòng quanh bếp lửa như những khán giả đam mê xúm quanh một sân khấu mà diễn viên duy nhất chính là anh. Đứng ở vị trí trung tâm, cậu học sinh phố huyện kể lại các liệt sử, các dã sử, các huyền thoại của người miền xuôi cũng như các vùng núi non khác xứ. Tất thảy kho kiến thức mà ông thầy trường huyện đã truyền thụ cho anh. Chú anh, ngồi ngay bên cạnh, khi đưa mắt nhìn anh với cái nhìn vừa yêu thương vừa thán phục, khi cúi đầu xuống để che giấu vẻ hãnh diện trước xóm giềng. Ông là người thợ săn nổi tiếng khắp vùng, người nấu cao hổ, cao gấu, cao sơn dương thành thục. Những miếng cao được sản xuất từ ngôi nhà sàn của ông là thứ mà những người giàu có sành sỏi khắp nơi phải lặn lội về bản Xíu để tìm kiếm...Chính với tiền bán những lạng cao ấy ông đã nuôi anh đủ bẩy năm đèn sách. Vậy mà khi nghe anh tán tụng tiếng sáo Trương Lương, khi nghe anh bình phẩm cái chết của Quan Vân Trường, khi anh miêu tả trận Bạch Đằng với tiếng hô Sát Thát...ông không tránh khỏi cảm giác thần phục của những người mù chữ trước một kẻ đọc thông viết thạo.Và sự thần phục ấy lia sát đến biên giới của sợ hãi hay mê đắm. Sức mạnh chinh phục của văn hoá là nghiệm sinh quan trọng nhất trong thời niên thiếu của An. Tuy anh chỉ là cậu học sinh trung cấp và chân trời xa nhất của anh dừng lại nơi những dãy phố nhỏ với những mái nhà lợp ngói ống huyện Thất Khê. Để so sánh, An hiểu rằng những gì anh hiểu biết chỉ là một hạt cát cỏn con trước một sa mạc mênh mông của con người lão luyện kia, kẻ đã hai mươi năm giang hồ tứ xứ, kẻ nói được cả tiếng Tàu lẫn các loại tiếng Tây. Kho trí tuệ của ông ta hẳn muôn ngàn lần rộng lớn hơn anh, và như thế, Nàng Nhỏ yêu ông ta cũng không phải việc lạ lùng.

" Nhưng cớ sao ta lại so sánh mình với con người quyền năng ấy? Đấy là sự rồ dại. "

An thầm nghĩ một cách chua chát. Nhưng tức khắc, một tiếng nói khác dội lại như đáp lời:

" Vâng, ông muôn ngàn lần tài giỏi, quyền uy. Nhưng dẫu sao ông vẫn bước chân vào gia đình này sau tôi, đứng trước bàn thờ tổ tiên của hai nàng, tôi được quyền thắp nhang trước. Còn giờ đây, vợ chồng tôi là những người chăm chút con ông. Nói cho cùng, chính ông phải chịu ơn chúng tôi, hỡi vị vua già ."

Buổi tối hôm đó trôi qua một cách nặng nề. Đêm đến, Nàng Đông ôm riết lấy anh. Họ không nói gì nữa. Họ làm tình một cách lặng lẽ. Họ làm tình như lần đầu làm tình ven bờ con suối Sơn ca. Như tuổi mười lăm được triệu hồi với tất cả sự hăm hở điên cuồng và sôi sục. Bởi thế, hôm sau anh ngủ đến tận non trưa. Khi tỉnh giấc, vợ anh đã đi chợ còn Nàng Nhỏ dẫn hai đứa con xuống dưới sân chơi với bà già hàng xóm. An mở rộng khuôn cửa sổ nhìn cảnh ba mẹ con nàng chơi dưới gốc sấu già. Dán mắt và cảnh tượng đó nhưng đầu óc anh hoàn toàn mù mịt khói sương. Hoàn toàn trống rỗng. Không một ý nghĩ nào hiện lên rõ nét. Chẳng một cảm giác nào có thể mô tả thành lời. An cảm thấy anh đã biến thành một thứ tượng gỗ biết đi lại, nói năng nhưng vô cảm. Anh chìm đắm trong trạng thái mụ mị như thế giờ lâu cho đến khi vợ anh quay về. Nàng Đông bỏ làn thức ăn xuống sàn, chăm chú nhìn chồng. Rồi, chừng như cảm nhận được trạng thái tinh thần kì dị của anh, nàng dẫn anh vào phòng. Ở đó, nàng ôm lấy đầu anh một cách dịu dàng, dịu dàng ghì xiết vào bộ ngực nồng nàn của mình. An gục mặt vào lòng vợ. Da thịt ấm nóng thân thuộc của nàng, và nỗi dịu dàng âu yếm của tình yêu khiến anh dần dần trồi lên khỏi làn nước lạnh giá của sự vô cảm. Anh bật khóc. Khóc nức nở như một người đàn bà. Khóc cơ cực như kẻ đói cơm rách áo. Khóc hờn tủi như một đứa trẻ bị lạc trên sân ga.

Thứ bẩy tuần sau đó, An sẽ không còn thời gian để khóc.

Khi anh đạp xe tới nơi, ba người lính mặc thường phục nhìn anh với những con mắt âm u như mắt loài quỷ dơi chuyên sống trong các hang sâu, trước hết, cái nhìn của Nông Tài, gã người Tày duy nhất trong nhóm cận vệ. Dường như trong cái nhìn của gã, ẩn chứa một tiếng thét hãi hùng câm lặng, một hồi còi báo động, một nỗi sợ hãi bị bóp nghẹn. An đưa mắt nhìn lại Nông Tài, gật đầu chào rồi tiến vào hành lang. Những cái nhìn tối tăm của đám cận vệ đuổi theo anh, như rót xuống lưng anh một thứ chì nung lỏng. Nhưng con tim anh không còn đập dập dồn như lần trước. Một tuần lễ đủ cho anh suy ngẫm và dự phóng mọi tai ương có thể xảy đến với gia đình mình. Kho tàng lịch sử tàng trữ trong trí nhớ giúp anh chuẩn bị. Khi bước vào nhà, An khép chặt hai cánh cửa sau lưng và không ngạc nhiên khi thấy hai người đàn bà ôm nhau khóc. Họ chỉ có thể khóc thôi, họ còn biết làm gì hơn vào lúc này?... Nhưng tiếng khóc của họ không còn dừng ở mức độ phiền não mà là tiếng khóc của sự kinh sợ và căm uất. Không còn là sự buồn thương cho số phận mà tiếng than ai oán của kẻ bị dày xéo, bị hà hiếp, sống trong cơn kinh hãi trước cái chết đang từ từ tiến đến như một cỗ xe tăng sẽ nghiền nát họ nay mai. An bước tới, không chờ những người đàn bà lên tiếng đã nhìn thấy ngay gương mặt sưng tím vết đòn của Nàng Nhỏ. Anh ngồi xuống, cầm lấy hai cánh tay nàng, vén áo lên để xem những vết cào xước, những vết máu tụ xanh và dấu vết các lằn trói chưa đủ thời gian tẩy xoá.

- Kẻ nào đã dùng nhục hình với em?

- Quốc Tuỳ.

- Bộ trưởng bộ nội vụ. Cái thằng cha đã đón đường em hồi còn ở trên chiến khu Việt Bắc?

Nàng Nhỏ gật đầu.

An quay sang hỏi vợ:

- Lúc ấy em ở đâu?

- Em ở dưới sân với lũ nhỏ và bà già hàng xóm...Vừa bước chân vào nhà là ông ta đã đuổi em xuống sân. Em không thể chống lại vì ông ta rút súng ra doạ nếu kêu to ông ta sẽ bắn vỡ sọ.

- Em có kêu , tiếng kêu ấy cũng chỉ có bà già hàng xóm và ba cậu lính gác nghe thấy mà thôi. Không phải vô cớ mà chúng nó bố trí cho các em ở ngôi nhà này. Thằng khốn nạn ấy đến đây hôm nào?

- Nó đến đây liên tục từ thứ hai cho đến hôm nay, thứ bảy. Lần nào cũng vào khoảng ba giờ chiều. Lần nào cũng bắt lính gác lui ra ngoài phố, chặn đứng ngoài hành lang không cho ai bước chân vào. Lần nào nó cũng đánh và trói em của chúng ta.

Tới đó, vợ anh bật gào lên:

- Tủi nhục quá anh ơi.

An nhếch mép mỉm cười. Nụ cười đối diện với số phận. Anh không có quyền khóc nữa. Chắc là vì dự cảm mà tuần lễ trước con tim anh đã tan ra trong những dòng nước mắt. Anh phải khóc một lần cho cả kiếp sống của anh. Cầm hai cánh tay nõn nà của Nàng Nhỏ, anh hỏi:

- Nó đã nói những gì với em, thằng chó đểu người Kinh này?

- Nó bảo rằng nó đã để mắt đến em từ hồi trên chiến khu, khi gặp em lội qua suối. Rằng nếu em khôn ngoan thì phải bằng lòng làm vợ nó từ ngày ấy. Rằng nó đã thề rằng trước sau nó cũng phải chiếm được em.

- Rồi sao?

- Rồi em nói rằng tôi là vợ chủ tịch. Chúng tôi đã có đủ mặt con trai con gái, ông không được hà hiếp tôi. Nó nhe răng cười nói rằng lão già của mày ở xa lắm, mày kêu lão ấy cũng không nghe thấy, mày gọi lão ấy cũng không thể trả lời. Ở đây tao là vua. Tao muốn ai người ấy phải chịu . Tao muốn giết ai kẻ đó phải chết. Giờ đây tao muốn mày nằm dưới bụng tao. Bởi đó là nghị quyết của bộ chính trị. Bộ chính trị đã quyết định mày phải là vợ tao. Hãy khôn ngoan lên một chút, tao trẻ hơn lão già của mày nhiều. Nếu cái dùi cui của nó bằng gỗ thì của tao bằng thép. Nếu nó đưa mày lên tầng trời thứ ba tao sẽ đưa mày lên tầng trời thứ chín. Nếu nó cho mày hai đứa con, tao sẽ cho mày mười hai đứa liền tù tì. Khôn ngoan thì câm họng lại và dạng chân ra.

Người đàn bà kể đến đâu, nước mắt nàng tuôn rơi đến đấy.

An nghe những viên sắt nung đỏ lăn trong tim mình. Một đoạn sử quay trở lại văng vẳng bên tai anh:

" ...Nhà Chúa hèn nên Đặng Phi thông dâm với Ngự đầu quân, nương dựa vào viên võ quan này để che chở cho đứa em trai ngạo ngược và dâm đãng là Đặng mậu Lân. "

Anh nghĩ:

" Em ta không tự ý ngủ với Ngự đầu quân mà bị nó hãm hiếp sỉ nhục và tra tấn.Vậy ông vua già này còn mười lần hèn hơn Chúa Trịnh ngày xưa. Cơ đồ không còn cứu vãn được. Nếu ta không cao chạy xa bay toàn bộ gia đình ta sẽ biến thành những con ma không đầu lang thang muôn kiếp trong bóng tối. Nỗi oan khiên đau đớn của em ta sẽ vĩnh viễn bị chôn vùi trong câm lặng. Và lãng quên. Một kiếp hồng nhan dạt qua cõi đời như xác vờ bập bềnh trên sóng nước. Em ta chẳng có tội tình gì. Từ nhỏ tới lớn nó chưa nỡ nói một lời phạm tổn đến ai. Tâm hồn nó trẻ thơ và trong trắng. Lòng tốt của nó đong đầy gấp ba lần đấu của những người xung quanh. Ta phải tồn tại để cứu gỡ danh dự bị tổn thương của nó. Ta phải sống để làm nhân chứng cho tội ác ghê tởm này. "

Ông thầy huyện Thất Khê đã dậy anh rằng nghề viết sử là nghề của những bậc anh hùng, dám đem mạng mình đổi lấy sự thật. Bởi mọi thứ vua chúa đều kinh sợ sự thật và muốn những người viết sử phải uốn ngọn bút lông theo ý mình. Biết bao nhiêu cái đầu sử gia đã rụng xuống dưới lưỡi kiếm của đao phủ triều đình, nhưng lịch sử vẫn tiếp tục viết lên bằng những dòng máu khô đen của họ.

" Vậy ta buộc phải trở thành người viết sử. Không phải người viết sử quốc gia nhưng là kẻ chép lại cuộc đời những người thân thiết của riêng ta. "

Anh ôm chặt cả hai người đàn bà một lúc, nhìn họ một lần cuối như để vĩnh viễn ghi khắc những hình ảnh đó trong con tim lẫn óc não mình. Rồi, anh hỏi vợ:

- Em còn mấy chiếc nhẫn?

- Em còn đủ năm chiếc.

- Em hãy giữ lấy chiếc nhỏ nhất mà anh đánh cho em hồi mình cưới nhau. Còn lại, đưa cả cho anh. Tiền mặt, chắc không có nhiều, nhưng cũng phải cho anh một món để tiêu dọc đường.

- Không, nhà mình còn khá nhiều tiền mặt tích trữ từ năm ngoái. Để em đưa cả cho anh.

- Bao nhiêu?

- Khoảng chừng năm mươi vạn.

- Anh chỉ cần một nửa thôi. Em giữ một nửa để đi chợ.

Vợ anh vào buồng. Anh nhìn theo tấm lưng thon thả của nàng và nghĩ:

" Em sẽ chẳng còn dịp đi chợ, chẳng còn dịp nấu phở chua theo kiểu Lạng Sơn, người vợ yêu dấu của anh. Cuộc sống của chúng ta bị cắt ngang như thân cây lúa ngày mùa. Chao ôi, cái ngày Nàng Nhỏ được tiến vua chính là ngày tai hoạ cho gia đình chúng ta lẫn dân bản Xíu. Và cái việc đổi họ Nông sang họ Chí chính là việc ngu xuẩn nhất trên trần gian."

Nàng Đông quay ra với xấp tiền giấy trên tay. Tay kia, nàng cầm một chiếc túi nhỏ như cái mề gà. Đặt xấp tiền lên bàn, nàng mở túi rút ra một sợi dây dài xâu bốn chiếc nhẫn, loại nhẫn gộc không mặt đá cũng không trang trí mà những người buôn bán đường xa thường mang theo:

- Anh phải cất vàng vào túi quần đùi ; cái túi em máy thêm phía trong cạp.

- Anh hiểu rồi.

- Tiền giấy anh chia ra thành nhiều món xếp trong cả túi quần lẫn túi áo, lỡ mất món nọ còn có món kia.

- Anh hiểu.

- Còn lọ dầu xoa chống cảm lẫn thuốc chống đau bụng viên, anh cũng phải cầm theo. Ngoài ra còn đèn pin, bật lửa, dao đi rừng, túi thuốc lá, cao chống rắn độc. Đủ hết chưa?

- Có đủ trong túi dết.

- Để em xem lại cái túi dết của anh.

- Không thiếu gì hết.

An đáp và thầm nghĩ:

" Có cái thiếu trầm trọng nhất là thiếu em, và Nàng Nhỏ của chúng ta. Bởi anh không thể đưa các em cùng đi trong cuộc hành trình khốn khổ này. Nhưng chúng ta sẽ gặp nhau ở cõi khác, vùng đất khác, nơi hẹn hò chung cuộc của tất thảy chúng sinh. Rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau. Những người yêu dấu của anh. Nhưng trước khi gặp các em, anh phải làm chuyện này cho ra lẽ. "

Lần cuối cùng, anh cúi xuống, ghì xiết hai người đàn bà, ngửi mùi thơm thân thiết từ những mái tóc óng mượt của họ, chà sát mặt anh vào những gương mặt nõn nà ấy, rồi anh đứng lên:

- Các em đừng bước ra cửa. Đừng đi theo anh. Hôn hai đứa bé cho anh.

- Anh !...

Cả hai người bật kêu lên. An hạ giọng:

- Đừng khóc. Hãy coi mọi sự như chưa từng xảy ra, chưa hề xảy ra. Chúng ta không có cách nào hơn...

Anh bước xuống cầu thang, không ngoảnh lại một lần nào nữa.

Trong hành lang, An gọi Nông Tài:

- Cậu có sẵn tiền trong túi không? Cho tôi mượn một vạn? Tôi đang định mua mấy món đồ gửi người mang về quê, nhưng chưa chuẩn bị đủ tiền.

Nông Tài đưa mắt nhìn anh:

- Bao giờ trả?...

- Tuần sau. À, quên...Hai tuần nữa mới tới kì lương. Đến kì lương tôi sẽ trả ngay, không chậm một ngày.

- Trong túi tôi chỉ còn đủ tiền mua vài chiếc bánh rán. Tôi cất tiền ở doanh trại.

- Sắp đến giờ đổi gác rồi còn gì? Nói với các đồng chí thông cảm cho về sớm một giờ được không?

- Được thôi. Chờ tôi hỏi đã.

Hành lang không quá dài để cuộc trao đổi của họ có thể lọt vào tai hai người cận vệ kia. An hiểu rằng màn kịch chắc chắn sẽ thành công bởi thông thường, người miền núi vốn không biết nói dối. Chừng ba phút sau đã thấy Nông Tài quay lại:

- Đi thôi, hai đồng chí đều đồng ý cho tôi về trước. Chúng ta đến chỗ tôi gửi xe đạp rồi cùng đạp về doanh trại.

- Đồng ý.

Họ cùng đi ra..

Khi Nông Tài lấy được xe đạp, hai người lặng lẽ đạp xe qua ba con phố. Hoàn toàn tin tưởng rằng không ai rõi theo họ, An dừng lại:

- Tạt vào hè đã.

Nông Tài hiểu ý anh tức khắc, xuống xe. Hai người lên vỉa hè, đứng dưới bóng một cây xà cừ. An hỏi:

- Hai cậu kia có biết rằng sớm hay muộn họ cũng sẽ phải chết không?

- Không ai dám nói với ai nhưng cả ba chúng tôi đều ngầm hiểu như vậy. Chúng tôi gác ca chiều. Sự việc xảy ra toàn vào buổi chiều nên chỉ ba chúng tôi chứng kiến. Tốp kia đổi ca từ mười hai giờ đêm đến trưa hôm sau, họ không hay biết gì.

- Vậy sao các cậu không bàn nhau trốn đi? Trốn đi đâu bây giờ? Sáng nào cũng điểm quân trước giờ tập thể dục, chiều nào cũng điểm quân trước lúc lên giường ngủ...Vả chăng, nếu muốn trốn họ cũng không bàn với tôi vì tôi là người Tày. Còn tôi, tôi cũng không thể bàn với họ, vì họ là dân Kinh. Bộ trưởng Quốc Tuỳ là người Kinh như họ. Còn Nàng Xuân là người Tày như tôi.

- Liệu họ có ngờ rằng tôi rủ cậu đi trốn không?

- Không.

- Vì sao?

- Vì họ cho rằng chúng ta là dân miền núi, những kẻ cả tin và ngu ngốc không dám hành động liều lĩnh như vậy.

- Tốt. Vì chúng ta là những kẻ ngu ngốc nên có thể chúng ta sẽ thoát chết...Còn họ vì là dân đồng bằng khôn ngoan nên họ sẽ cầm chắc cái chết trong tay. Giờ, không còn thời gian nữa. Chúng ta phải ra ga thôi. Hy vọng rằng chúng ta sẽ không lỡ tàu với tấm chứng minh thư công an nhân dân của cậu...

- Nhưng ...còn quần áo với tiền và đồ đạc của tôi ở doanh trại?

- Cậu có điên không? Cởi truồng mà sống còn hơn chết đắp ba bộ quân phục trong hòm. Đi thôi.

Họ đạp thẳng ra sân ga Hàng Cỏ. Ở đấy, hai người gửi xe vào bãi rồi mua vé tầu xuôi Vinh. Đúng như An dự đoán, tấm thẻ công an của Nông Tài được việc. Họ được ưu tiên mua vé tức khắc với lý do " làm nhiệm vụ đặc biệt ". Vừa kịp bước lên toa tầu nhận chỗ, tàu đã hú còi rời ga. An đặt chiếc túi dết ra sau lưng rồi ngồi xuống, đưa mắt nhìn phố phường lướt bên ngoài ô cửa:

" Vĩnh biệt mày, thành phố thù nghịch của tao. Cái thành phố tao từng mơ tưởng bao tháng ngày khi còn ở chiến khu Việt bắc, cái thành phố tao ngỡ là thiên đường nhưng giờ đây lại hoá thành địa ngục. Chính nơi đây sẽ là hầm mộ tăm tối chôn vùi vĩnh viễn những người thân thiết của tao. Vĩnh biệt con quái vật khổng lồ, ghê tởm."

An nghĩ, khi anh đưa mắt nhìn Hà nội. Lần cuối cùng, chắc chắn sẽ là lần cuối cùng anh còn thấy nó.

- Anh Thành.

Nông Tài chưa kịp ngồi yên chỗ đã chồm qua mặt bàn, ghé tai anh thì thầm hỏi:

- Anh Thành, tôi nghĩ rằng.

- Cậu nghĩ gì?

- Tôi không hiểu vì sao chúng ta lại đi về phương nam? Tiến sâu vào đồng bằng miền Trung, ta sẽ giống con chồn sa xuống ruộng nước; như con cá lăng bị hất lên đồi. Tại sao chúng ta không quay về Thất khê? Ở đó, chúng ta thuộc đường chính cũng như đường tắt, chúng ta biết suối biết rừng. Trốn ở đâu ta cũng có thể đào cây đào củ hay bẫy thú cầm hơi.

- Đồ ngốc, Thất khê sẽ là nơi đầu tiên họ truy tìm. Chúng ta không thể chui lủi trong rừng mãn kiếp. Vả chăng, có thoát được lưới quây vượt sang biên giới cũng sa vào tay lính Tàu. Bọn này sẽ tức khắc dẫn độ chúng ta trả cho cho nhà nước Việt nam.

- Nhưng ở miền Trung, nơi xa lạ?

- Chỉ có ở nơi xa lạ mới hòng thoát thân. Từ Vinh lên biên giới Việt-Lào ngắn hơn nhiều lần từ huyện nhà lên biên giới phía bắc.

- Sao anh biết được?

- Tôi phải biết để có thể thoát thân...Bằng mọi giá tôi phải học để hiểu những điều cần thiết trước khi cất bước.

- Nhưng bên kia biên giới là đất của người Lào. Anh đã biết họ hay chưa?

- Người Lào và người Tầu giống như con nai với con báo, chẳng thể so sánh với nhau.

Cuộc đối thoại thầm thì của họ chìm trong tiếng bánh sắt nghiến trên đường ray. Rồi An bảo:

- Ngủ đi.

- Tôi chưa đến giấc. Vả lại bụng đói khó ngủ.

- Đúng. Không ai ngủ được khi đói bụng. Giờ cậu xuống căng-tin mua bánh mì. Ăn xong chúng ta sẽ uống thật no nước. No bụng, dễ ngủ. Bằng mọi giá phải ngủ để lấy sức cho ngày mai.

Nông Tài đứng dậy đi xuống căng-tin ở toa cuối cùng đoàn tầu mua về hai ổ bánh mì to tướng rắc muối tiêu và hai bi-đông nước. Hai người lặng lẽ ăn, lặng lẽ uống nước rồi khoanh tay trước bụng, ngủ ngồi. Con tầu dồi lắc cái đầu của họ như đùa rỡn một quả bóng. Nhưng dẫu sao, sau một hồi chập chờn họ cũng ngủ được một giấc thật sâu cho đến khi tiếng loa phóng thanh oang oang báo tin:

- Tàu đã đến sân ga Vinh.. Xin đồng bào kiểm tra lại hành lý.

An mở choàng mắt. Tàu chạy chầm chậm trước khi dừng lại hẳn. Ánh đèn lờ mờ đỏ quạch rọi trên đầu một đám đông nhốn nháo, đang chen nhau tìm kiếm hành lý trên các giá chứa đồ. Hai người ngồi im bởi họ chỉ có vẻn vẹn chiếc túi dết một quai trong đó chứa tất cả những vật dụng cần thiết cho một cuộc chạy trốn. Họ xuống sân ga khi trời mù sương. Mới bốn giờ sáng. Những cỗ xe ngựa sắp hàng dài ngoài cửa sân ga còn các chủ xe ngồi uống trà hoặc rượu xuông trong dãy quán bán đồ ăn dọc phố. Ở đây, chính khách phải đi tìm chủ xe để thương lượng giá cả. Người đi lại đông, xe ngựa không đủ chuyên chở. Còn chờ xe ca của nhà nước thì phải xếp hàng ít nhất mười tiếng mới có thể mua được một tấm vé. An bảo:

- Chúng ta phải nhanh chân lên.

Anh dẫn Nông Tài dạo một lượt đoạn nhìn vào một ông chủ xe dáng điệu ngang tàng với hàng râu ghi-đông vểnh:

- Chào bác. Chúng tôi có nhiệm vụ đặc biệt trên biên giới. Liệu bác có thể giúp hai anh em tôi được chăng?

- Các anh là ai chứ?

- Chúng tôi là công an nhân dân và sĩ quan quân đội. Đây là chứng minh thư của hai anh em tôi.

- Công an nhân dân cũng như sĩ quan quân đội được ưu tiên đi xe nhà nước. Ba ngày một lượt có chuyến xe lên cửa khẩu. Các đồng chí thuê quán trọ rồi báo công an địa phương sắp xếp. Sáng ngày kia khắc có chuyến.

- Nhiệm vụ của chúng tôi khẩn cấp. Chúng tôi không thể chờ được.

- Nhưng các đồng chí cũng không thể thuê xe ngựa của chúng tôi . Ngựa chạy đường núi giá đắt lắm. Ở đây thông thường chúng tôi chỉ chở khách về các thị trấn quanh Vinh mà thôi.

- Đắt mấy chúng tôi cũng chịu. Rồi cơ quan sẽ thanh toán lại.

Chủ xe đưa mắt nhìn họ ngờ vực:

- Một chuyến xe này thông thường chở tám khách.

An cướp lời:

- Chúng tôi trả đủ tám xuất vé và thêm cả tiền hành lý của tám người. Hy vọng bác ưng thuận.

- Được rồi.... Để tôi xem.

Ông râu vểnh ậm ừ.

An nói tiếp:

- Và chúng tôi trả thêm tiền bồi dưỡng ngựa chạy đường xấu. Nếu cần đổi ngựa dọc đường chúng tôi cũng sẵn sàng bao. Miễn sao tranh thủ được thời gian để hoàn thành trách nhiệm vụ đã được giao phó.

- Được.

Tới đó, người chủ xe đứng lên, với vẻ nhanh nhẹn bất ngờ. Ông ta rút trong túi ra vài đồng xu lẻ trả cô bán nước chè rồi dẫn hai người ra xe. An rút tiền trong túi ra đếm rồi tức khắc đưa hai phần ba tổng số tiền sẽ phải thanh toán cho chủ xe, đoạn nói thêm:

- Còn lại, tôi sẽ trả bác ngay khi nhìn thấy đồn biên phòng hiện lên trước tầm mắt.

- Đồng chí là người rất hào phóng.Vì thế trời đã đưa đường dẫn lối cho đồng chí đến gặp tôi. Nói một cách sòng phẳng, con ngựa của tôi là số một trong đám ngựa chạy xe ở thành phố này. Ngoài nó, chẳng có con nào dám ngược đường lên biên giới... Bởi tôi là người duy nhất cho ngựa ăn ngô trộn mật. Những người khác chỉ cho ngựa ăn cỏ quanh năm.

Ông ta dẫn giải với vẻ đầy kiêu hãnh. Rồi khi đã cẩn thận cho tiền vào túi áo, cẩn thận cài khuy nắp túi, ông ta thượng lên ghế xà-ích, ra roi. Cỗ xe quay chiều ngược đường lên phía tây.

Sau một lát lắng nghe tiếng vó ngựa lộp cộp nện trên đường phố, An thò cổ ra quan sát:

- Vinh không lớn hơn thị trấn Thất Khê là bao. Nhưng kiểu nhà ở đây hơi khác. Vì sao đâu đâu cũng nhìn thấy những thùng tô-nô sơn đỏ thế kia?

- Các đồng chí mới lần đầu đặt chân đến đây, đúng không?

Người xà-ích quay lại hỏi.

- Vâng. Quả tình như vậy.

An đáp. Người xà-ích giơ roi chỉ về những giải núi chập trùng nơi chân trời phía trước và nói:

- Phía tây là nơi gió Lào thổi tới. Xứ chúng tôi hứng gió Lào, thứ gió thổi đến đâu cây cối quắt queo tới đấy. Chẳng những cây cối ngoài vườn mà ngay đến đồ đạc như giường tủ bàn ghế hay các thứ vật dụng khác trong nhà cũng đều khô cong khô nỏ và biến thành thứ củi bắt lửa nhanh nhậy. Vì lẽ đó chống hoả hoạn là công việc của toàn dân. Những chiếc thùng tô-nô sơn đỏ kia do chính quyền phân phát cho các nhà để dự trữ nước. Ai lười biếng để thùng vơi nước sẽ bị láng giềng tố cáo và phải chịu cảnh cáo hoặc kỉ luật.

- Đội cứu hoả của thành phố ăn lương nhà nước để làm việc đó. Cớ sao buộc mọi nhà dân?

- Đội cứu hoả ở đây biên chế nhiều gấp ba lần các thành phố khác. Nhưng cho dù có đông gấp hai mươi lần họ cũng chẳng thể chống nổi hoả hoạn trong cơn gió Lào. Gió Lào, còn gọi là gió lửa, chính nó gây nên các vụ cháy chứ chẳng cần thêm vào sự sơ xuất của con người.

- Vậy sao ! Thật đáng sợ.

An đáp, trong khi những ý nghĩ khác chạy thoăn thoắt trong óc não anh:

" Gió Lào! Hung hiểm thay. Vậy mà chúng ta đang tiến về hang ổ cái lò lửa đó. Chẳng có thứ thiên tai nào hung hiểm hơn thứ tai hoạ gây nên bởi con người. Chẳng có thiên nhiên nào tàn độc hơn thứ tàn độc của con người đối xử với nhau. "

Đoạn, anh quay sang bảo Nông Tài:

- Nghe bác xà-ích nói gì chưa? Từ hôm nay sẽ phải hành quân trong thứ gió Lào bỏng rát đó. Bây giờ ngủ đi mà lấy sức.

- Đường lắc như xóc đĩa, ngủ làm sao?

- Vậy thì nhắm mắt lại.

Người lái xe quay lại góp lời:

- Đúng đấy, nhắm mắt được phút nào hay phút ấy. Chỉ lát nữa, mặt trời lên, mắt sẽ chói như bị kim đâm. Khách từ phía Bắc vào đây đều kêu trời thứ nắng bỏng của Nghệ An.

- Quê hương chủ tịch họ Chí !

- Đích xác là như vậy.

Ông chủ xe râu vểnh đáp và cất tiếng ngâm: " Đất nghèo sinh bậc anh hùng... "

- Bác ngâm thơ hay thật.

An gật gù tán thưởng khi thâm tâm anh cất tiếng cười khinh bỉ:

" Ồ, ông ta đúng là một bậc anh hùng. Nhưng ông ta cũng lại chính là kẻ hèn nhát nhất trên cõi đất này, một người chồng không bảo vệ nổi vợ, một người cha không che chở nổi những đứa con. "

Bên ngoài, nhà cửa đã thưa vắng. Ngoảnh lại nhìn, thành phố Vinh chỉ còn là một khối hỗn độn với dăm ba ống khói đang nhả lên trời thứ khói đen nhờ bẩn thỉu.

An hỏi người xà-ích:

- Liệu chúng ta có đến được biên giới trước lúc tối trời?...

- Tuỳ. Tuỳ theo chân ngựa chạy. Tuỳ theo trời nắng hay mưa. Bởi mùa này khí hậu thất thường như trở bàn tay, có khi đang nắng đẹp trời xanh lồng lộng bỗng nhiên mưa giông gió giật ầm ầm kéo đến. Nha khí tượng chưa bao giờ dự đoán chính xác những cơn bão miền Trung. Nhưng nếu chúng ta gặp may, ngựa không giở chứng giữa đường, ta sẽ đến cửa đồn biên phòng khi mặt trời còn đứng cao hơn một con sào trên đỉnh núi.

- Tức là khoảng bốn giờ chiều? Ý bác muốn nói vậy?

- Tôi không hay xem giờ. Nghề đánh xe buộc chúng tôi suốt ngày đêm rong ruổi trên đường, sớm hay muộn cũng vậy. Nhưng tôi nhớ là thường thường, khi xe đến đây, mặt trời còn đứng cao hơn ngọn núi phía tây chừng một con sào.

- Sớm chút nào hay chút ấy. Qua biên giới, chúng tôi còn phải đi bộ một thôi đường khá xa.

- Ô....

Người chủ xe cất tiếng kêu, chẳng ra ngạc nhiên cũng không ra hứa hẹn. Rồi ông ta thủng thẳng buông tiếng:

- Để rồi xem.

An nhìn những giải đồi cằn cỗi phía trước, nơi bắt buộc họ phải vượt qua trước khi tới miền biên giới: Chúng mênh mông trống vắng, dường như có thể phóng tầm mắt đến hút tận chân trời. Không một cụm rừng, cũng chẳng một ngọn núi. Chỉ triền miên những giải đồi trơ trụi trên đó mọc thuần một loài gai thấp lè tè không quá sải tay và các loại dương xỉ. Nếu bị rượt đuổi ở nơi này, cái chết sẽ cầm chắc.

" Liệu hôm nay các đồn biên phòng Thất Khê đã nhận lệnh truy nã hay chưa? " .

An thầm nghĩ và hình dung cảnh tượng sẽ diễn ra sau lưng họ. Trước hết đơn vị anh và đơn vị của Nông Tài sẽ báo cáo sự mất tích của hai gã " dân tộc thiểu số ". Phaỉ hai mươi bốn giờ sau mới có thể ra lệnh truy nã theo thông lệ nhưng trường hợp này gã bộ trưởng Quốc Tuỳ ắt phải quyết định sớm hơn. Trên các chuyến tàu ngược Lạng Sơn và Lao cai lính sẽ giăng hàng khám xét để bắt hai kẻ " đào ngũ " Liệu chúng sẽ gán cho họ những tội danh nào để hợp lý hoá việc ban bố lệnh " truy nã tội phạm "? Nếu không cướp của giết người ắt chỉ còn là tội làm gián điệp cho ngoại bang. Và đó là tội danh tiện lợi nhất để kích động lòng căm thù cũng như sự khinh bỉ của dân chúng:

" Ta tin chắc rằng giờ đây chúng ta đã trở thành những tên gián điệp nguy hiểm, âm mưu lật đổ nhà nước vì nhận tiền viện trợ của ngoại bang. Sẽ không có một cách giải thích nào khác. "

An thầm nghĩ với nỗi buồn chua chát vì nhớ lại bao nhiêu lần từng đứng dưới cờ tuyên thệ trung thành chiến đấu cho tổ quốc, thề tiêu diệt đến kẻ thù cuối cùng dám xâm phạm vào nền chuyên chính vô sản của nhân dân. Giờ đây, anh đã trở thành thứ kẻ thù ấy, chính anh và gã Nông Tài ngồi một bên đang lơ láo đưa mắt nhìn cảnh vật. Cuộc sống quả là trò lường gạt khủng khiếp mà biết bao nhiêu triệu con người chỉ là đám đông khờ khạo bị xỏ mũi dắt đi như một đàn trâu.

" Nhưng còn hai người đàn bà, chúng sẽ làm gì họ? "

" Chúng sẽ không làm gì hết bởi họ đã là hai tù nhân trong căn gác ấy, và họ không có cách nào chống lại chúng. Nhưng hai gã cận vệ kia ắt sẽ bị gọi lên răn đe phải khâu mồm câm họng.

Hai kẻ khốn khổ đó có đủ liều mạng để trốn đi hay chăng?...

Không ! Dù có bạo gan họ cũng không còn cơ may để làm điều đó. Sau cuộc bỏ trốn của Nông Tài, họ sẽ thường xuyên sống dưới sự kiểm soát của đồng đội. Họ sẽ phải ngậm đắng nuốt cay giả câm giả điếc, giống như thứ xác chết biết đi hay hình nhân bằng gỗ đứng trong cái hành lang dài dặc và thiếu ánh mặt trời kia.

Gã bộ trưởng dâm đãng sẽ không thay đổi lính gác trong thời gian tới. Một tuần, hai tuần hoặc ba tuần? Tất cả tuỳ thuộc vào cơn dâm dục của y. Khi đã no nê thú tính, hai người đàn bà cùng hai người cận vệ kia sẽ cùng một lượt xuống mồ. Hai gã lính ấy, chắc chắn cũng như anh đã từng giơ nắm tay hàng ngàn lượt dưới quốc kì thề tiêu diệt kẻ thù của nhân dân và bảo vệ tổ quốc ! "

- Tại sao anh cười? Anh cười gì vậy?

Nông Tài bất chợt cất tiếng hỏi khiến An giật bắn mình. Anh vội đáp:

- Nhớ ra một chuyện tiếu lâm.

- Vậy thì kể đi cho đỡ buồn.

- Không kể được. Bậy bạ lắm.

Nông Tài lặng im với vẻ bất mãn.

An chợt nhận ra rằng anh đã có thói cười gằn khi những nỗi đau băm chém con tim. Cái thói quen lạ lùng này vừa mới hình thành đã trở nên thuần thục như vốn nó gắn liền với anh từ muôn thuở.

" Gã trai của bản Xíu năm xưa đã chết hẳn rồi, ta chẳng còn nhìn thấy nó."

Anh thầm nghĩ. Nhưng lát sau, một câu hỏi não lòng lại vang lên bên tai:

" Nhưng còn hai đứa trẻ? Liệu lũ chó đểu kia sẽ làm gì chúng? "

Anh hình dung đôi mắt đen như hạt nhãn của con bé Mùi, hơi thở thơm tho của nó khi nó thỏ thẻ bên tai anh, cái cảm giác mềm mại khi những sợi tóc của nó cọ vào bên má, một thứ tình ngọt ngào êm ấm dâng lên mỗi khi con bé đặt hai bàn tay bé xíu của nó vào bàn tay rộng lớn của anh. Đôi bàn tay người thợ săn. Nghĩ tới đó, An lại thấy một lưỡi dao quắm bén nhọn đang thọc ngoáy tim mình. Máu chảy ròng ròng từ những vết thương ấy:

" Không!Ta không thể nghĩ đến những điều ấy nữa. Coi như phía sau

lưng ta chỉ là một nấm mồ lặng câm và tăm tối. Không còn ai, không còn bản Xíu, không còn cả chú thím ta và ông bố vợ. Tất cả đều bị xoá đi trên mặt đất này. Ta sẽ là kẻ cuối cùng. Kẻ cuối cùng buộc phải sống để tố cáo lũ đao phủ người Kinh. Ta phải làm được điều đó bằng mọi giá. "

Đột nhiên, An cảm thấy mệt mỏi. Anh bảo Nông Tài:

- Nằm xuống đi. Tôi đau lưng lắm. Mỗi băng ghế đủ cho bốn người ngồi nên ta có thể nằm duỗi chân cho thoải mái. Đừng quên rằng qua đồn biên phòng chẳng còn xe ngựa cũng chẳng có xe trâu. Chỉ có hai bàn chân thôi. Đường xa dốc ngược. Chẳng dễ đâu.

- Đồng ý.

Gã trai đáp ngoan ngoãn và chuyển sang bên chiếc ghế băng đối diện. Người xà-ích quay lại bảo:

- Các đồng chí cứ nghỉ ngơi. Đến nơi, tôi khắc gọi.

An nhắc lại:

- Khi nhìn thấy đồn biên phòng tôi sẽ trả nốt tiền cho bác. Nếu ngựa chạy tốt, đến sớm hơn lệ thường chúng tôi sẽ gửi thêm tiền để bác mua ngô mua mật bồi dưỡng cho nó.

- Được thôi.

Người chủ xe vui vẻ đáp đoạn cất tiếng hát một điệu hát cổ mà An chưa từng nghe. Giọng ông ta khá ấm, vang rất to giữa miền đồi hoang. Chắc hẳn thời trai trẻ ông ta phải là một ca sĩ nơi thôn xóm, cũng như những tài tử thổi tiêu thổi sáo thâu đêm trên bản Xíu quê anh. An nằm xuống ghế, lắng nghe câu hát một cách chăm chú. Câu hát xứ này trộn lẫn một cách ngô nghê ý thơ lẫn những câu nói dung tục, tầm thường:

" ...Này, cô nàng ở bên kia sông ,
Cô nàng áo thắm, cô nàng quấn khăn hồng,
Có chồng rồi hay còn chờ đợi người tới gọi,
Dẫu có chồng mà chồng đi vắng thì lội sang với anh,
Nơi đây vắng vẻ đìu hiu chẳng ai nhìn thấy,
Ngại ngần chi, cuộc sống ngắn chẳng tầy gang,
Hãy lội sang đây, cô nàng xinh đẹp,
Giải áo phất phơ của em bay khiến tim anh bồn chồn nóng cháy
Anh như bước đi trên lửa, như đang ngồi trên than.... "

Bước chạy của con ngựa đường trường gieo một thứ điệp khúc buồn tẻ, hoà cùng tiếng hát rền rĩ tiếc thương của người xà-ích nhiễm đầy đầu óc lẫn con tim An . Dần dà, giấc ngủ đến, cuốn anh vào những làn sóng đen ngòm của nó.

***

- Dậy thôi. Đồn biên phòng kia rồi.

Tiếng hô của người chủ xe khiến cả hai người đều bật dậy.

- Ối cha, chói mắt quá....

Nông Tài vừa lật chiếc mũ úp trên mặt đã kêu váng lên.

Không kêu nhưng An phải vội vàng nhắm ngay mắt lại vì thứ ánh sáng chói chang như muôn ngàn chiếc kim đâm làm họ chảy nước mắt tức thì.

Sau một hồi nhắm mắt, úp trở lại chiếc mũ lên mặt cho quen dần với thứ ánh sáng gay gắt này, An mới dám mở mắt ra. Người chủ xe nói:

- Tôi đã nói trước mà. Người nào từ xứ Bắc vào cũng la ó hoảng hồn vì nắng Nghệ An. Đó còn là may mắn vì hôm nay không có gió Lào.

- Nếu có gió Lào nữa thì sao?

- Các đồng chí sắp sang bên đó. Không cần tò mò ngày mai khắc biết.

- Đồn biên phòng đâu?

- Nhìn thấy chưa? Cái đốm đỏ cao nhất, đó là nơi cắm cờ của đồn lính. Thời trước là cờ Pháp. Sau ngày cách mạng là cờ đỏ sao vàng.

An rút tiền đếm rồi đưa cho người chủ xe:

- Bác cầm lấy. Chắc dư tiền mua mật và thóc cho chú ngựa.

Người xà-ích bỏ tiền vào túi rồi cúi xuống gầm xe lôi lên hai bó lá chuối khô:

- Đồng chí hào phóng quá, tôi cũng phải biết phận sự của mình. Người ta bảo: có đi có lại mới toại lòng nhau. Đây là hai cân đường phèn hảo hạng. Các đồng chí có thể ngậm khi đi rừng cho đỡ khát. Nếu muốn may mắn vượt qua đồn biên phòng thì có thể tặng lính một nửa. Trên đó họ buồn nên hễ cứ có người là họ tìm đủ cách vặn vẹo giấy tờ để chuyện vãn cho vui.

- Có cái lệ đó hay sao?

- Chẳng có lệ nào cả nhưng ở đó họ buồn....Thi thoảng lắm mới có một chuyến xe ngựa ngược lên đây. Còn lại là xe quân đội. Xe khách chẳng qua lối này. Nếu đồng chí bị nhốt ở đồn biên phòng ấy quanh năm đồng chí cũng sẽ làm như họ thôi.

- Cảm ơn bác.

An nói và đưa gói đường phèn lên ngửi. Quả là thơm. Anh bảo:

- Cũng phải tặng họ một nửa thôi. Chúng tôi cần phải đi khi còn ánh mặt trời.

- Nếu không có đường phèn ắt hai đồng chí phải ngủ đêm ở đó sáng mai mới lên đường được. Đa phần lính là dân Bắc. Họ phải lục hỏi đủ thứ chuyện ngoài quê hương.

An lặng thinh. Nhưng Nông Tài chăm chú nhìn một hồi rồi quay lại bảo anh, giọng hốt hoảng:

- Anh Thành, họ đứng dàn hàng đón đường chúng ta trên đỉnh đồi.

Anh đưa mắt nhìn lên thấy ngọn cờ đỏ đã hiện rõ. Đúng là lính đứng giăng thành hàng chắn ngang đường. Vẻ như một cuộc vây ráp đã chuẩn bị sẵn. Bất giác An đưa tay rờ khẩu súng bên hông. Cùng một lúc, Nông Tài cũng làm cử chỉ đó. Hai người đưa mắt nhìn nhau. Rồi An trấn tĩnh lại và hạ giọng thản nhiên hỏi người xà-ích:

- Vì cớ gì họ đứng thành hàng như thế kia?

- Vì buồn.

Ông ta đáp gọn lỏn, tay không ngừng ra roi trên lưng ngựa. Xe đang lên dốc và con ngựa có vẻ như bắt đầu chùng chân.

- Hây ,hây... Dấn lên! Con mẹ mày, sắp tới nơi rồi đừng giở chứng. Cố lên, lát nữa ông sẽ cho ba đấu thóc trộn mật. Cố lên, chỉ còn đoạn này nữa thôi.

Ông ta mắng con vật. Dường như con vật khôn ngoan này hiểu được ý chủ nên nó lại lên vó. Chiếc xe chồm lên rồi tiếp tục chạy bon bon. Lúc ấy, người xà-ích quay lại:

- Tôi đã bảo rằng bất cứ ai ở tình thế của họ cũng sẽ làm thế thôi. Họ ra đây để nhìn xe ngựa. Lát nữa họ sẽ nhìn các đồng chí rồi tranh thủ chuyện vãn. Mong sao họ sẽ để cho các đồng chí đi một cách sớm sủa.

- A...Ra thế.

An cất tiếng, rời tay khỏi vũ khí. Anh trù tính cách thức có thể vượt qua cửa ải này một cách mau lẹ và an toàn.

" May sao chúng ta là dân Tày. Chúng ta chẳng biết gì nhiều mà chuyện vãn với đám lính Kinh. Mà giờ đây , cũng chẳng còn chút cảm tình cỏn con nào để nói những chuyện vớ vẩn. "

Nghĩ một lát, anh nói:

- Bác thật là người tốt bụng. Bác có thể đứng chuyện vãn với họ một lát để họ buông chúng tôi đi sớm hay không? Đường rừng ban đêm không dễ dàng mà ngủ lại thì lỡ nhiệm vụ. Chúng tôi có thể biếu thêm tiền bác.

- Không phải mua tôi bằng tiền.

Người xà-ích đáp cộc lốc:

- Tôi chỉ lấy đầy đủ phần quyền lợi của tôi cũng như của con ngựa thôi. Nếu tôi tham quá ắt trời giáng hoạ. Nhưng tôi hứa là giúp các đồng chí. Tôi sẽ ngồi tán chuyện với họ ở đó chừng nửa giờ. Mặt trời còn đứng trên đỉnh núi một con sào rưỡi.

Chừng mươi phút sau họ lên tới đỉnh đồi. Đám lính không chậm một giây, quây lấy chiếc xe ngựa, mặt anh nào anh nấy tí tởn như bắt được quà:

- Chào các đồng chí.

Người xà-ích cất tiếng oang oang:

Lính tranh nhau đáp:

- Chào bác. Lâu lắm mới thấy xe ngựa leo lên đây.

- Ồ; ngựa lên đây một lần về phải bồi dưỡng cả tháng. Chỉ có những dịp đặc biệt tôi mới ra roi. Hôm nay, tôi chở hai đồng chí quân nhân làm nhiệm vụ đặc biệt.

- Nhiệm vụ nào thì cũng xuống đây chuyện trò cái đã.

An và Nông Tài nhẩy xuống, rút chứng minh thư xuất trình. Nhưng một anh chàng túm cả hai tấm thẻ cho vào túi áo mà chẳng thèm đưa mắt liếc qua. Rồi, anh khác, đeo lon thượng uý bảo:

- Mời các đồng chí vào đồn chơi.

Nói xong, cả bọn kéo nhau đi trước, An và Nông Tài buộc phải lẽo đẽo theo. Chừng như nhìn thấy vẻ lo âu trên mặt họ, người chủ xe lên tiếng:

- Các đồng chí cứ vào nghỉ chân uống nước. Tôi cho ngựa ăn rồi lên ngay. Nhớ đem theo gói đường phèn chưa?

- Tôi cầm theo đây rồi.

An đáp.

Đồn biên phòng xây trên đỉnh đèo, ba toà nhà hình chữ môn như kiểu nhà người Việt ở đồng bằng với mảnh sân ở giữa lát đá hộc. Cây cột cờ trồng ngay phía trước toà nhà chính, thân gỗ đã mốc từng đám và trắng phếch màu thời gian. Đầu hồi toà nhà chính giáp một lô-cốt nhỏ bằng xi-măng, chắc chắn xây từ thời Pháp thuộc. Kề đó, một trạm kiểm soát bằng gỗ. Phía sau lưng toà nhà bên trái, tụt xuống sườn đồi chừng dăm chục thước là tàu ngựa có chừng hơn chục con đang đứng nhai cỏ. Tầu ngựa này có ba lần rào thép gai bảo vệ vì ở đây, ngựa là phương tiện giao thông chính của lính biên phòng:

" Ngày mai, chính lũ ngựa kia sẽ rượt đuổi chúng ta. Rồi xem ta có thoát nổi hay không. Nhưng trường hợp rủi ro, ít nhất ta cũng phải cho nửa tá bọn bay xuống âm phủ trước khi ta nhắm mắt."

Anh trù liệu trong khi quan sát cảnh vật. Rồi họ bước vào gian nhà chính, rộng thênh thang với chiếc bàn lớn như bàn bóng ping-pông kê giữa, trên đó ngổn ngang nào ấm nước, nào báo chí vừa mới vừa cũ, nào ra-đi-ô, nào bao thuốc, dao găm, dao nhíp, mũ vải, đèn pin...Bốn bức tường xung quanh dán la liệt các tấm ảnh cắt từ hoạ báo ra, thuần là các cô nàng xinh đẹp trong các đoàn văn công và các nhà hát, nào là Thị Mầu lên chùa, nào là Xuý Vân giả dại, nào là đám múa Hoa đăng hay đội múa Hoa thơm bướm lượn...tất cả chen chúc nhau lộn xộn chẳng ra hàng lối chi. Tay thượng uý, ắt hẳn là trưởng đồn, ném một cái lệnh giữa khoảng không:

- Cậu nào đi đun nước pha ấm chè mới.

Một tiếng đáp từ ngoài sân tức khắc vọng lại:

- Báo cáo thủ trưởng, tổ anh nuôi nhen lửa rồi...

" Mình sẽ chết tắc ở đây với bọn chúng....Phải tìm cách thoát thôi..."

An thầm nghĩ và lên tiếng:

- Báo cáo đồng chí....

- Được rồi. Uống nước xong báo cáo cũng chưa muộn. Chúng ta đều là lính cả. Đồng chí bộ binh, tôi biên phòng. Cùng dân phải thức dậy khi nghe kèn tò tí te buổi sáng. Mấy khi gặp nhau. Đồng chí có đi bây giờ cũng không kịp. Nhìn mặt trời thế thôi nhưng tối nhanh lắm. Vùng này ban ngày nắng chói mắt ban đêm sương núi dày như bông.

An cảm thấy như gần tắc thở. Thứ " tình ái " lính này quả thật nguy hiểm cho anh. May sao lúc đó, người xà-ích đã quay trở lại. Ông ta vừa thong thả bước vào nhà vừa cất giọng ngâm nga cái bài hát ghẹo gái lẳng lơ hồi nãy:

" ....Dẫu có chồng mà chồng đi vắng thì lội sang với anh,
Ở đây vắng vẻ đìu hiu chẳng ai nhìn thấy ...."

Tay thượng uý quay sang người xà-ích, ngoác mồm cười:

- Sao bố già lại rủ vợ người ta sang với mình mà không sợ tội?

- Tôi có rủ ai đâu? Bài hát của các cụ từ thời xửa thời xưa đấy chứ?

- Các cụ ngày xưa cũng bậy bạ ghê nhỉ?

- Các cụ ấy cũng có cái lưỡi để uốn, hai con mắt liếc gái như chúng ta bây giờ thôi. Nhưng dẫu có muốn phê bình hay kỉ luật thì họ cũng đã ngủ ngon dưới ba thước đất. Chẳng ai có thể túm gáy họ lên mà tra khảo nữa.

Nói rồi ông ta đưa mắt nhìn An, vẻ như bảo anh yên tâm. Thấy thế, An cất tiếng hỏi:

- Bác đã cho ngựa ăn xong rồi hay sao?

- Xong làm sao được. Nó tha hồ nhẩn nha. Còn đồng chí, đã xuất trình giấy tờ chưa?

- Tôi đã đưa cả hai tấm thẻ quân nhân rồi nhưng lính của đồng chí thượng uý đây lại cất vào túi áo. Ồ, ra thế.

"....Này cô nàng áo thắm, này cô quấn khăn hồng..."

Ông ta hát tiếp một câu rồi quay sang tay thượng uý:

- Hai đồng chí này đang phải làm nhiệm vụ khẩn cấp không thể chờ xe ca quân đội. Thế nên công an thành Vinh mới chỉ đến tôi. Chẳng có lời sức mấy tôi dám cho ngựa lên tận đây? Hai người này chẳng có thời gian uống chè với chúng ta đâu. Nhưng họ có đường phèn ngon lắm, trên xe họ cho tôi vài miếng ngậm thử, thơm như phấn hoa vậy.

Quay sang An, ông hỏi:

- Đồng chí có thể tặng anh em trong đồn một ít được không? Chúng tôi sẽ ngồi uống trà cho ngọt giọng.

An đặt gói đường lên mặt bàn, đáp:

- Có đây. Để làm quà cho các đồng chí.

Anh tủm tỉm cười nhìn tay thượng uý:

- Tôi trung uý, kém đồng chí một hàm. Đáng lẽ có thời gian ngồi tâm sự hẳn là vui. Nhưng rủi chúng tôi đang phải làm nhiệm vụ khẩn cấp.

- Thế hả?

Thượng uý thò cổ ra khỏi cửa, hỏi vọng đám lính đứng túm tụm ngoài sân:

- Cậu nào lúc nãy cầm chứng minh thư quân nhân của hai đồng chí?

- Dạ em.

- Xem chưa?

- Dạ, trung uý Chí văn Thành và thượng sĩ công an nhân dân Nông Tài. Hai đồng chí đều là dân tộc Tày.

- Đem trả cho các đồng chí ấy. Thật đáng tiếc là họ phải làm nhiệm vụ khẩn cấp.

Cậu lính mang hai tấm thẻ trả cho họ.

Thượng uý trưởng đồn nói:

- Thôi, lúc các đồng chí quay về sẽ gặp lại nhau. Tôi có đứa em trai họ lấy vợ người Tày, con bé xinh ơi là xinh, da nó trắng nõn như bông, còn đẹp hơn da mấy bà vợ chuyên gia Liên-xô, Tiệp khắc. Nếu kiếp sau còn có duyên gặp nhau tôi xin làm rể dân Tày. Chấp thuận chứ?

- Cảm ơn.

An và Nông Tài chào khắp lượt đám lính rồi quay trở lại con lộ. Tiếng hát người xà-ích đuổi theo sau lưng:

"... Giải áo phất phơ của em bay khiến tim anh bồn chồn, nóng cháy,

Anh như đang đi trên lửa như đang ngồi trên than..."

An bảo:

- Nếu thoát được, chúng ta phải ngàn lần cảm ơn người chủ xe ngựa này.

- Đồng ý.

Ven đường, con ngựa đã ăn hết chậu thóc trộn mật đang đứng liếm mép một cách thoả mãn, giương mắt nhìn hai vị khách. An bảo:

- Giờ thì co cẳng lên.

Hai người hướng về phía đất Lào, cắm đầu đi như chạy.

Họ đi như thế chừng một giờ liên tục, mồ hôi chảy đầm đìa khắp mặt và thấm đầy lưng áo. Mặt trời đã tụt xuống một con sào, lơ lửng treo như trái cầu sáng chói trên đỉnh núi phía Tây. Nắng vẫn tràn ngập mênh mông nhưng không khí đã nguội bớt. Vừa chậm bước chân một chút, An cảm thấy thấm lạnh hai vai. Phía sau lưng họ, những giải đồi lúp xúp gai và dương xỉ chạy cho tới hút tầm mắt. Trước mặt, khoảng một thôi đường nữa là tới rừng. Đường viền sẫm của nó đã hiện lên dọc theo những con đèo liên tiếp. Nông Tài kêu to:

- Rừng kia rồi. Chúng ta sống rồi.

- Xin quỷ thần hai vai phù trợ cho chúng ta. Nhưng phải đi nhanh lên. Sau lưng là khoảng trống, đường quang. Nếu lũ ngựa biên phòng đuổi theo chắc không thoát.

- Đồng ý.

Nông Tài đáp và cả hai tiếp tục lao đầu cun cút chạy. Vừa chạy, họ vừa nhìn mặt trời, như nhìn thứ đồng hồ báo giờ trong cuộc đua việt dã sinh tử. Cứ như thế, khi đặt chân vào cửa rừng cũng là lúc mặt trời vừa chạm trên đỉnh núi cao nhất và ngự trị ở đó, kiêu hãnh trong sắc vàng lộng lẫy. An thấy thấm mệt, bước chậm lại. Nhưng Nông Tài bảo:

- Chưa chậm chân được đâu. Khoảng rừng này thưa lắm, ngựa chạy tha hồ. Ta phải vào được đến lòng rừng, lối đi vừa lọt bước chân mới mong thoát hiểm.

Nói rồi, cậu ta len lên đi trước anh, chừng như muốn khích lệ bạn đồng hành. Dẫu sao, đi dưới bóng cây, tim họ đã bớt đi cơn phấp phỏng. Hai người vượt qua một cánh rừng dốc xuôi xuống trảng. Một trảng cỏ tí hon, nói cho đúng là một rẻo chân núi phủ đầy thứ cỏ dài lông xám bạc. Qua đó chừng mươi phút, họ tới một cánh rừng bằng phẳng hơn nhưng rậm rịt dây leo, lối đi chỉ vừa lọt một người. Nông Tài vừa thở vừa vuốt mồ hôi mặt:

- Chưa hẳn là lòng rừng nhưng ngựa khó chui vào đường này vì thòng lọng bẫy.

- Ờ. May cho chúng ta thật.

An vừa nói vừa ngước nhìn những đám dây leo đong đưa trên đầu, những cánh tay tua tủa như tay bạch tuộc của các vòi cây, trông xa giống hệt lũ rắn xanh đang ngóc đầu ngoe nguẩy. Dọc lối đi chăng đầy những thứ dây leo lớn nhỏ, dài ngắn khác nhau nhưng đều tạo thành những nút thòng lọng mà bất cứ con ngựa nào rúc vào rừng cũng vướng. Nếu là một đoàn ngựa thì lại càng khó khăn hơn. Ít nhất, cũng phải có một kẻ mở đường dùng dao quắm phạt hết đám dây nhợ ngựa mới hòng nhích vó.

Nông Tài quay lại bảo anh:

- Rừng quê ta ít loại dây leo này.

- Ờ.. Nhưng nhiều cây lớn hơn đây.

- Dây leo ở đây nhiều màu lạ. Xem kìa, búi dây bên trái chúng ta có màu da cam. Còn đám dây quấn ngang thân cổ thụ lại trổ đầy lá tím như cà dái dê vậy.

- Ờ. Đất khác, rừng khác, cây cũng phải khác...

An đáp, tiếp tục ngẩng lên nhìn những tua dây leo phất phới trong các kẽ nắng hiếm hoi của hoàng hôn. Khi ánh nắng lướt qua, lớp lông tơ phủ lên chúng óng ánh như giấy thiếc. Nông Tài không nói gì thêm, lặng lẽ bước. Đột nhiên, An nghe một tiếng " Roạt", một tiếng động trầm đục nhưng rất nặng , kèm theo mùi hôi khủng khiếp. Mùi hôi khủng khiếp ấy gợi lại màn đêm quen thuộc của những năm xưa trong các cánh rừng bản Xíu. Óc anh vụt lóe lên tiếng kêu: Hổ!

Nhẩy ba bước, An vồ lấy thân cổ thụ gần nhất và leo lên với tất cả sức lực còn lại sau quãng đường chạy bộ. Vượt qua ba đốt chẽ, nơi thân cây chia nhánh, anh leo tới đốt chẽ cuối cùng tiếp giáp với ngọn cây, yên trí hoàn toàn rằng hổ không thể nào nhẩy lên được, An mới dừng lại. Tìm cành ngang lớn nhất, anh ngồi lên hai

chân quắp chặt lấy cành, hai tay ôm vòng quanh thân cây. Xong xuôi, anh mới dám cúi đầu nhìn xuống: Con hổ đang đặt Nông Tài phía dưới hai chân trước của nó, ngửa cổ giương mắt nhìn anh. Bốn tia mắt giao nhau ngay tức khắc. An lạnh toát sống lưng. Cặp mắt chúa rừng mở rộng, rọi thẳng vào anh những tia sáng màu thép trộn lẫn màu vàng ốc. Cặp đồng tử co giãn nhè nhẹ, hai hàng ria cũng nhúc nhích rung rinh nhè nhẹ trong cái nhìn chăm chú khó cắt nghĩa. An nghĩ:

" Nó biết còn con mồi thứ hai. Nó sẽ tiếp tục rình cho tới lúc mình tụt xuống. Giờ là lúc phải hết sức bình tĩnh để vượt qua cơn nguy hiểm này."

Trước hết, anh cố trấn tĩnh cơn run rẩy để lục túi-dết lấy ra sợi dây dù vạn năng. Rồi anh tự trói mình vào thân cây, biết đó là cách tốt nhất để bảo vệ mạng sống. Bởi đã từng có tấm gương của tiền nhân để răn dậy kẻ đi sau. Thời chú anh còn trẻ có một số thợ săn hoặc kiếm sĩ sống bắng nghề bảo kê. Hoặc bảo vệ những nhân vật con dòng cháu giống, lắm tiền nhiều của và cũng đầy rẫy kẻ thù. Hoặc bảo vệ những thương gia trên các chặng đường vùng biên giới. Lần ấy, một người thợ săn tháp tùng một tay lái buôn thuốc phiện. Anh ta đi trước, nhưng con hổ lại vồ người đi sau. Người thợ săn trèo lên cây tìm cách thoát thân, trong khi trèo hoảng hốt đánh rơi khẩu súng. Không còn vũ khí, người thợ săn chẳng có cách nào hơn là bám chặt lấy cái cây như kẻ chết đuối bám lấy chiếc bè hộ mạng. Rủi ro là anh ta đã gặp một con hổ thành tinh. Sau khi chén sạch con mồi thứ nhất nó ngủ ngay dưới gốc cây chờ tiếp con mồi thứ hai. Trong trường hợp ấy, nếu đủ lòng can đảm và sự tự tin, nạn nhân có thể lừa lúc con vật ngủ say nhất mà thoát thân. Nhưng người thợ săn này không đủ bản lĩnh bước qua lưng thú dữ. Anh ta mắc cứng trên cây, suốt đêm gà gật trong nỗi hãi hùng và trong giá lạnh của khí núi. Hôm sau, con hổ thức dậy, vươn vai duỗi chân để tìm lại khí thế sau giấc ngủ dài. Rồi nó chuẩn bị tấn công con mồi mới. Lượn quanh gốc cây vài lượt, nó dừng lại giương mắt trừng trừng nhìn con người tội nghiệp kia, đoạn buông tiếng gầm thét. Sau một hồi gầm thét, nó lại lượn vòng quanh gốc cây như một con chó lượn quanh bãi nước đái của chính mình, đoạn nó lại tiếp tục uy hiếp nạn nhân bằng những tiếng gầm thét. Kẻ xấu số không chịu nổi ánh mắt loài độc thú và tiếng gầm của nó, thêm nữa, sau một đêm mỏi nhừ vì sợ hãi, đói khát, anh ta không còn đủ sức bám lấy cành cây nên rơi xuống, làm bữa ăn linh đình của ngày thứ hai cho chúa sơn lâm.

Câu chuyện này phường thợ săn thường kể đi kể lại sau mỗi mùa săn chính, quanh bếp lửa và chảo nấu cao. Từ thuở đi theo phường săn, An đã thuộc lòng. Giờ, nó giúp anh cẩn trọng. Quấn ba vòng dây dù để trói thân mình vào thân cây, An kiểm tra kĩ các nút thắt, rồi cài lại nắp chiếc túi dết, chỉnh lại khẩu súng sau lưng cho thuận tiện khi sử dụng. Đoạn, anh cúi xuống tham dự cuộc thôi miên với con thú. Nhưng, ngược với sự phỏng đoán của anh, con hổ đã cúi xuống con mồi đặt sẵn dưới hai chân. Tội nghiệp Nông Tài, hẳn từ cú vồ đầu tiên của dã thú, chàng trai đã chết, không kịp bật một tiếng kêu. Con hổ này đã quen ăn thịt người. Phải quen vồ người từ lâu lắm, nó mới có thể quật chết họ mau lẹ như vậy....

Chắc chắn nó phải được liệt kê vào loại hổ thành tinh, loại độc thú đã thừa thãi kinh nghiệm để biết con người là thứ mồi hảo hạng. Gặp nó, cửa địa ngục tự động mở ra.

" Từ đầu đến khấu đuôi nó phải dài đến thước tám."

An ước tính. Con hổ này chưa già vì lông còn vàng au và các vằn đen còn sắc nét như vẽ. Cứ nhìn cách nó vần cái đầu của con mồi khắc biết nó khéo léo và nhanh nhẹn đến nhường nào. Một sức mạnh không thể gìm nén khiến An không thể rời mắt nhìn con thú. Có thể là sự sợ hãi. Có thể là nỗi tò mò. Hoặc cả hai thứ nhào trộn lại. Từ năm mười ba anh đã theo ông chú và phường săn bản Xíu lên rừng. Chú anh hạ thủ vô số gấu ngựa, lợn lòi, hươu hoẵng và hơn một tá hổ. Nhưng với anh, sự hiện diện của loài thú này chỉ là hai ngọn lửa xanh lè từ cặp mắt nó phóng ra khi bắt ánh đèn săn. Mùi hôi và gây đặc biệt không thể nhầm lẫn với mùi các loài thú khác. Tiếng sột soạt của các đám lá cọ vào vai họ trong những đêm rừng ẩm lạnh. Và sương giá mịt mùng trong những thời khắc đợi chờ. Người thợ săn không có quyền chậm trễ nửa giây, nếu họ muốn tồn taị. Nhiều khi cuộc chờ đợi kéo dài từ chập tối đến quá nửa đêm, ai nấy gần như hoá đá vì rét lạnh. Nhưng vào thời khắc con thú tiến đến, và khi cặp mắt nó hắt lên những tia phản chiếu sắc lạnh chính là lúc súng phải nổ ngay. Đạn nhằm vào điểm giữa hai con mắt. Rồi sau đó, hoặc là con thú chết tại chỗ vì lượng đạn bắn đủ và trúng các điểm dễ tổn thương, hoặc là phường săn phải theo đuổi con vật cho đến khi nó chết vì vết thương quá trầm trọng, cuộc rình rập này có khi kéo đến ba bốn ngày...Cuối cùng, con vật được chở về bản, xẻ thịt, róc xương, và những chiếc vạc lớn nấu cao được bắc lên bếp lửa.

Như thế đó, là thợ săn nhưng anh chưa từng nhìn thấy hổ sống, lại càng chưa hình dung tường tận cách nó thịt con mồi. Chưa bao giờ.

" Đây chính là đầu tiên tao tận mắt thấy mày, hỡi chúa sơn lâm "

Anh thầm nghĩ.

Con vật đang đặt một chân lên cái đầu của Nông Tài, vần qua vần lại như trẻ con vần quả bóng. Rồi, đột ngột, nó ngoác mồm ra đớp một nhát vào cổ nạn nhân. An nghe tiếng xương ròn răng rắc vụn giữa hai hàm răng thú. Con vật táp rất nhanh miếng thứ hai. Cái đầu đứt lìa khỏi thân người lính. Con thú lấy chân hất nó ra xa như ta ném một viên bi. An nhìn thấy cái đầu đỏ ngòm của người bạn đường lăn mấy vòng trước khi bắn vào bụi cây gần đó. Anh dường như tắc thở, nỗi kinh hoàng khiến anh tê liệt chân tay. Một cơn băng giá từ từ lan toả khắp toàn thân. Anh cảm thấy cơ bắp trở thành co cứng và bất động như gỗ đá.

" Nếu ta không kịp trói thân vào cây, ắt ta rơi xuống mà chết như người thợ săn xấu số ngày xưa mà không cần phải đợi qua một đêm trên cây, cũng không cần bị nó gào thét để uy hiếp. "

Ý nghĩ đó thoáng qua óc anh như tia chớp. Đồng thời, một làn nước ấm nóng đâu đó tuôn chảy trên tấm thân đông cứng và tê liệt vì kinh hoàng của anh. Phải một lúc sau, An mới biết rằng nước tiểu đã vọt ra mà anh không hay biết. Nước tiểu chảy dọc theo hai đùi, thấm ướt hai ống quần, tiếp tục bò xuống hai bàn chân. Khi gió thổi nguội đi chúng khiến anh càng lạnh.

Dưới kia, con hổ đã xé tan quần áo Nông Tài, bắt đầu bữa cỗ ngon lành của nó. An không dám mở mắt ra nữa. Nỗi tò mò cũng đã tắt ngấm như ngọn lửa bị tưới nước. Cơn sợ hãi chưa qua nhưng nỗi đau kéo tới. Lúc này anh mới hoàn toàn hiểu rằng người bạn đồng hành trong cuộc chạy trốn định mệnh này đã chết, chết một cách thảm khốc ngay dưới mắt anh:

" Nông Tài ơi, chúng ta chạy trốn một cái chết để rồi cái chết khác lại chờ đón ở nơi đây. Vào lúc cậu ngỡ là bước vào cửa sinh thì lại sa chân vào cửa tử. Hãy tha lỗi cho tôi vì tôi không đủ sức bảo vệ cậu. Hãy tha lỗi cho tôi vì tôi không làm trọn phận sự kẻ đưa đường. Lẽ ra, tôi phải là người đi trước chứ không thể là cậu. Nhưng số phận hay sự rủi ro xui khiến nên cậu phải thiệt thân. Từ nay, cái chết của cậu đè lên vai tôi, cùng với những người ruột thịt. Từ nay, lòng oán hận của tôi dệt thêm một mạng sống giống như sợi dây thắt thêm một nút để ghi nhớ mối thù này."

Anh thầm nói với người xấu số.

Một tình bạn ngắn ngủi kéo dài không quá hai ngày và một đêm. Nhưng vẫn là một tình bạn thật sự vì nó lôi dẫn họ qua biên giới mong manh giữa cõi sinh và cõi tử; nếu đã một lần đi qua bờ vực này, cuộc gắn bó sẽ kéo đến chung thân.

Những tia nắng rọi qua lá rừng không còn màu vàng nữa. Chúng nhạt màu chín của vỏ chanh. Điệu này chẳng mấy chốc mà tối. Anh phải thoát khỏi cánh rừng này trước khi đêm sập xuống. An bắt đầu xoa hai bàn tay thật mạnh cho máu lưu thông. Khi áp hai bàn tay lên má thấy hơi ấm trở lại bình thường anh mới gỡ khẩu súng khỏi lưng, lên đạn. Mục tiêu thật gần nhưng không dễ vì con hổ đang cắm cúi ăn, cần cổ và đầu nó di động liên tục. Chỉ có phần lưng và mông nó là chĩa thẳng về phía anh nhưng đấy lại là chính là những phần không gây nguy hiểm cho con thú.

Chợt một con tính chạy qua óc não anh:

" Tại sao ta lại tiêu diệt nó? Nếu bọn lính biên phòng đuổi theo bắt gặp xác hổ, ắt chúng sẽ truy nã ta sang tận đất Lào. Biên giới Lào-Việt chỉ vẽ trên bản đồ, không tồn tại trong thực tiễn. Đó là những gì ta đã biết từ cuộc kháng chiến năm xưa. Giờ cũng vậy thôi. Thời gian chưa thay đổi tình thế. Tốt hơn cả là ta để con thú thoát thân, và bày trò rằng chính ta cũng đã bị xé xác giữa hai hàm răng hổ. Đó chính là lối thoát chắc chắn nhất trong hoàn cảnh này. "

Sự xác quyết đến mau lẹ. An nhắm vào phần mông gần nhất phô ra trước nòng súng, bóp cò. Đường bay của viên đạn vô cùng chính xác.

Con vật gầm lên một tiếng khủng khiếp, quay ngoắt lại phía anh. Cặp mắt nó chiếu thẳng vào anh những tia sáng hung cuồng. Nó buông con mồi quay lại lấy đà nhảy vọt lên. Cú nhảy ấy khiến hơi gió tạt vào mặt anh mùi hôi sặc sụa. Nhưng An dự đoán chính xác, con thú không thể với tới nơi anh ngồi. Nó chỉ khiến tim anh gõ trống và da anh sởn gai ốc. Viên đạn chỉ phá vào phần mềm trên mông con thú, cú nhảy của nó hoàn toàn bình thường. Một cú nhảy dũng mãnh. Ngay trong trí tưởng tượng anh cũng không thể hình dung con vật có thể nhảy cao được đến thế. Và động tác của nó chuẩn xác, nhẹ nhàng, mềm dẻo như động tác của một con mèo đang độ trai tơ. Không vồ được mồi, cặp mắt con thú long lên ánh man dại xen lẫn đau đớn. Nó bước loạng choạng quanh gốc cây vài bước đoạn lùi lại, gào lên tiếng thứ hai rồi vọt lên cú nhảy tiếp. Cây súng trong tay anh rớt xuống mà anh không kịp nhoai theo. Khẩu tiểu liên rớt theo chiều dọc, va đập, tự nổ phát đạn nữa. Con hổ quay ngoắt lại, nhảy bổ vào thứ kẻ thù có hình dạng lạ lùng đó, táp một miếng với tất cả sức lực và sự điên cuồng vốn có. Rồi nó gầm lên một tiếng thê lương, có lẽ bởi thứ thép kia khiến hai hàm răng nó bị tổn thương và cơn đau mới cộng với vết thương nơi mông khiến nó không chịu nổi. Ngẩng đầu lên nhìn cái con mồi nhỏ bé trên cây với cái nhìn kinh ngạc, nó nhảy vọt vào bụi rậm và biến đi. An nhìn theo vết cây lá rùng rùng chuyển động, biết rằng con thú đã đi thẳng. Chờ một lúc lâu để tin chắc con hổ không quay lại nữa anh mới tháo sợi dây dù, nhét vào túi-dết rồi tụt xuống. Một thứ dính dáp làm anh vướng víu dưới mông. Lúc ấy, anh chợt hiểu rằng cơn sợ hãi không chỉ khiến anh vọt nước tiểu mà còn tống cả phân ra ngoài ruột:

" À, người ta nói sợ vãi cứt chính là thế này đây "

Nhưng ý nghĩ đó biến đi nhanh chóng bởi anh không còn thời gian suy ngẫm. An cởi áo xé ra thành nhiều mảnh, thấm vào đám máu bê bết dưới cái đầu lâu của Nông Tài, đoạn bưng chiếc đầu lâu đó thả vào một bụi gai dày rậm mà chắc chắn không con chó săn, sói rừng hoặc lợn lòi nào rúc vào nổi. Rồi anh vứt chiếc áo tả tơi đẫm máu của mình bên cái xác không đầu của người xấu số, giờ đây chỉ còn trơ trọi phần bụng và khung xương. Đoạn, anh ném khẩu súng của mình xuống gần sát khẩu súng của người đồng hành. Nhìn cảnh tượng ghê rợn đó lần cuối, anh quay lưng co cẳng chạy về phía trước, nơi văng vẳng tiếng chảy của một con suối. Đến bờ suối, anh định bước xuống tắm thì một cơn buồn nôn trào thốc lên họng khiến anh không thể nào kìm giữ. Cứ thế, những gì còn lại trong dạ dày anh vọt ra. Vọt ra cho đến những gợn chất lỏng màu xanh chen màu vàng và sau đó là thứ nước đen đắng như mật cá. Anh phải quì gối chống hai tay xuống mặt đất để khỏi ngã gục vì cơn nôn kì lạ. Nôn xong, ruột anh đau quặn từng hồi. Anh có cảm giác ruột anh đang bị cắt đứt bởi những lưỡi dao vô hình. Anh định đứng lên cởi khuy quần nhưng cơn đau rút thân anh co rúm lại như một con tôm bị trụng nước sôi. Anh đành lại quỳ gối xuống, cố gắng nín giữ để có thể lột chiếc quần ra. Những cơn đau nối tiếp khiến anh không còn đủ sức để làm việc đó. Anh đành úp mặt xuống cỏ để lấy điểm tựa rồi buông thân nằm nghiêng. Cũng lúc ấy những luồng phân phọt ra một cách đột ngột như một thứ nước chứa trong chai bất thình lình bị rút nút. Anh hoàn toàn không còn điều khiển được cơ thể của mình. Anh nằm nghiêng như thế, chờ cho cơn bệnh khủng khiếp đó đi qua. Khi không còn gì trong ruột, anh bắt đầu run lên vì rét. Một thứ gía lạnh từ xương tuỷ toả ra, hoà với hơi lạnh của rừng chiều.

" Mình chưa thể tắm ngay. Mình sẽ chết vì cảm. Mình sẽ chết ngay trong dòng nước. "

Anh nghĩ. Với tay mở chiếc túi dết, anh kéo ra tấm chăn dù mà Nàng Đông đã kì công khâu từng mũi cho anh từ những tấm dù chiến lợi phẩm trận Điện Biên. Tung tấm chăn ra, anh trùm kín toàn thân. Rồi nhắm mắt thở từng hơi dài, anh chờ cơ thể ấm dần lại. Khoảng thời gian đó thật nặng nề. Anh có linh cảm lũ ngựa biên phòng đang trên đường đuổi theo mình. Không nghe thấy một tiếng động nhỏ, nhưng chỉ là những hình ảnh được mường tượng theo thuần tuý theo linh giác.

" Ta cần phải thoát thân. Ta phải sống bằng mọi giá."

Anh nghĩ. Ý nghĩ đó cứ lặp đi lặp lại không ngơi nghỉ giống như gió thổi liên hồi vào lò than. Cũng như gió lùa vào lò than, nó hun nóng lại dần cơ thể băng giá và lả lướt của anh bằng thứ nghị lực của một kẻ cùng đường, bằng ý chí sống của con thú bị dồn vào bẫy. Chừng hai mươi phút sau, An cảm thấy nhịp đập của con tim trở lại bình thường. Lật tấm chăn, anh ngồi dậy, lội xuống suối tắm rửa, giặt bộ quần áo dơ gói vào tấm áo mưa, nhét cẩn thận vào túi-dết. Đoạn, lội sang bờ suối bên kia anh mặc bộ đồ mới rồi tiếp tục chạy. Rừng bắt đầu sẫm tối. Anh cố gắng chạy thêm chừng mươi phút nữa mới chịu lấy cây đèn pin ra dùng. Từ nay trở đi, cuộc sống của anh chỉ còn cây rừng bảo trợ. Anh phải tiết kiệm từng giọt ánh sáng. Anh cũng phải tiết kiệm từng mảnh bánh khô cho đến khi tìm được nơi ẩn nấp. Một cơn chóng mặt thoáng qua khiến anh phải dừng lại, mở túi-dết, móc ra một cục đường phèn bỏ vào miệng. Vị ngọt thấm vào lưỡi khiến bước chân anh đỡ run rẩy. Rồi lát sau, chất nước đường chảy xuống, làm hồi sinh cái dạ dầy trống rỗng và bị thương tổn của anh, khiến những cơn chòng chành chao đảo mất dần đi và anh cảm thấy các động tác của mình trở nên chính xác. Cứ như thế, An tiến sâu vào con đường tối đen mà anh ngỡ như đã đi được nhiều lắm. Nhưng nửa giờ sau, anh nghe vẳng đến tiếng vó ngựa dập dồn, tiếng nói xen lẫn tiếng la hét. Tất thảy những thứ tiếng động ấy vang xa trong vùng trời đen như mực vùng biên giới.

" Tại sao tiếng vó ngựa nghe gần đến thế? Hay ta đã lạc đường và quay vòng trở lại? Hoặc là chính con đường chạy theo hình vòng thúng bởi khi ta vượt qua suối, rừng chẳng còn bằng phẳng mà đổ nghiêng như sườn dốc. Rất có thể là lối mòn này dẫn ta quay lại cánh rừng kề cận nơi Nông Tài đã bị hổ ăn. "

Anh tắt đèn pin, chui vào một bụi rậm, hiểu rằng khi không thể xác định lối thoát thân thì tốt nhất là ngồi yên một chỗ trong bóng tối. Như thế còn đỡ nguy hiểm hơn là gây nên tiếng sột soạt và rắc vào đường mòn ánh sáng nhân tạo của cây đèn. Bọn lính biên phòng sẽ dễ dàng phân biệt được thứ ánh sáng này với các loại lân tinh. Quả nhiên, tiếng vó ngựa mỗi lúc mỗi gần hơn và gió đưa đến tai anh tiếng chửi thề của đám lính:

- Từ từ đã. Thúc mẹ nó vào ngựa của tao rồi.

- Tối thế này tránh làm sao được?

- Đằng nào cũng phải chờ chúng nó vạc đường mới tiến lên được. Mày đừng có thúc ngựa làm gì.

- Tao có thúc đâu. Tự nó chồm lên đấy chứ.

Một giọng can thiệp, chắc chắn của tay thượng uý trưởng đồn:

- Thôi đi các cậu. Chớ có cáu kỉnh với nhau. Lát nữa quay về, anh nuôi khắc có nồi cháo gà bồi dưỡng.

Bọn lính im. Và giọng tay thượng uý lại cất lên:

- Nhanh tay lên một chút. Chớ quên rằng bọn thổ mừ này thạo đường rừng gấp ngàn lần chúng ta. Bọn họ sinh ra với rừng cây mà.

- Báo cáo thủ trưởng bọn em vẫn cố sức ra tay nhưng lắm dây nhợ quá. Đoạn đường này thật là chó đểu.

- Có chó đểu mới cần đến ngọn dao nhà nghề của cậu. Rán sức lên. Tôi cho rằng chúng ta sắp đến nơi. Tài mấy chúng nó cũng không thể chạy nhanh hơn ngựa...

Những tiếng động chen lẫn tiếng hí của đàn ngựa vọng đến rõ mồn một. Lính tiên phong đang phạt dây dọn đường cho ngựa tiến lên. Vậy là chúng đã nhận được lệnh đuổi bắt họ từ lúc tắt mặt trời. Nhưng đám ngựa bị cản lại khi tiến vào rừng. Nếu lối mòn không chằng chịt những đám thòng lọng xanh, hẳn bọn lính đã tóm gọn anh khi anh còn đang nằm trùm chăn bên bờ suối, trong cái tình trạng thê thảm nhục nhã chưa từng có trong đời .

" Dẫu sao giờ đây ta cũng đã lấy lại được tư thế, và nếu có chạm trán nhau ta vẫn có thể tiêu diệt một vài thằng trước khi chịu nhắm mắt xuôi tay. "

An nghĩ. Ý nghĩ đó giống như niềm an ủi. Một con côn trùng nào đó đốt vào gáy đau buốt khiến anh xuýt bật tiếng kêu. Quài tay ra sau gáy, anh tóm được một con kiến độc to bằng hạt đậu đen, bóp chết nó tức khắc nhưng con vật cũng kịp chích nọc vào đầu ngón trỏ của anh khiến ngón tay anh buốt nhói lên. Cũng lúc đó, một tiếng thét vẳng đến:

- Hổ ! Hổ !

Một loạt đạn tới tấp và rối loạn cày lên tức khắc sau tiếng kêu kinh hoàng đó.

Anh cười thầm:

" Chúng mày có quá nhiều đạn để thị uy với chúa sơn lâm "

Khi loạt đạn dứt, anh nghe rõ tiếng tay thượng uý:

- Cậu nhìn thấy nó ở đâu?

- Không. Báo cáo thủ trưởng tôi nhìn thấy đám xương lồng ngực bị gặm hết thịt ở ngay sát chân ngựa.

- Đâu?

Chưa có tiếng trả lời, đã nghe tay trưởng đồn hét:

- Xuống ngựa đi. Đem đèn chạy ắc-quy lại gần đây.

Tiếng chân chạy, tiếng hò ngựa, tiếng roi vút đen đét. Rồi sau đó là sự im lặng. Có lẽ đám lính đang dò dẫm xung quanh cái xác không đầu và đám xương của Nông Tài. Rồi giọng tay thượng uý vang lên, không còn oang oang hùng hồn như thường lệ:

- Hai khẩu súng? Con hổ này chén sạch cả hai thằng?

- Vâng. Chắc nó phải lớn lắm.

- Chưa nghe ai nói hổ ăn thịt được một lần cả hai người.

- Báo cáo thủ trưởng, hổ chưa từng tạt chết một lần cả hai người vì khi nó vồ được con mồi thì những người khác đã kịp chạy hoặc nổ súng. Nhưng nó cõng cả con bò chạy bay bay. Lần này, có lẽ hai thằng thổ mừ tận số. Hoặc chúng nó ngồi nghỉ. Hoặc chúng nó đi cặp díp nhau. Tuy là dân miền núi nhưng chúng nó chưa lường được những cánh rừng xứ này.

- Không tìm thấy đầu lâu.

- Hổ không bao giờ ăn đầu lâu. Chỉ có sói và lợn lòi. Loài sói không đứng ăn một chỗ mà thường tranh cướp nhau và kéo mồi ra xa. Tôi cho rằng chính lũ sói kéo đi một cái xác và cả hai chiếc đầu lâu. Đàn sói này phải đông lắm.

- Đúng rồi. Chỉ có sói bầy với lợn lòi mới có thể dọn sạch đi nhanh thế. Tôi chắc rằng loạt đạn chúng ta bắn khi vào rừng đã đuổi chúng đi. Nhìn đám xương sườn kia cũng biết chúng phàm ăn đến nhường nào.

Một khoảnh khắc im lặng nữa trôi qua. Rồi tiếng một cậu lính trẻ cất lên:

- Báo cáo thủ trưởng, chúng ta quay về thôi. Ở đây mùi máu tanh quá.

- Sợ hả?

Tay thượng uý hỏi với giọng vừa thị uy vừa trịch thượng nhưng ngay sau đó anh ta quát:

- Cậu nào thu hai khẩu súng kia lại. Nhiệm vụ của chúng ta đã hoàn thành mà không tốn một giọt máu. Những tên phản bội tổ quốc, làm gián điệp cho ngoại bang đã bị thú dữ trừng trị thay vì toà án của nhân dân.

An nghe tiếng ho sặc sụa của một cậu lính, chắc là kẻ không may mắn bị sai đi lượm hai cây súng bê bết máu khô. Sau đó, tiếng giục giã lên ngựa, tiếng roi vút, tiếng xì xào và sau cùng, tiếng vó ngựa dồn dập, nhưng lần này mỗi lúc mỗi nhỏ dần đi.

Chờ cho tiếng ngựa chạy gần như tắt hẳn trong không gian, An mới chui khỏi bụi rậm. Anh quỳ xuống, thầm thì:

- Chúa sơn lâm ơi, mày đã cứu mạng ta.

*
* * *

Từ năm đó, anh sống trong một bản Vân kiều heo hút, nơi chính người Lào cũng ít khi đặt chân tới. Hai năm đầu trôi qua trong niềm tin đinh ninh rằng anh sẽ không bao giờ còn nhìn lại mảnh đất quê hương. Tổ quốc của anh không còn là Việt nam bởi cái tên đó chỉ còn là niềm oán hận. Anh ngồi viết đi viết lại câu chuyện bi thảm của gia đình mình bằng một mẩu bút chì, trên mặt sau của những tờ truyền đơn mà thi thoảng anh nhặt được dưới chợ, một cái chợ nhỏ xíu trong một thị trấn Lào cũng nhỏ xíu và hẻo lánh, nơi chỉ có những người lái buôn ít vốn liếng và dư thừa lòng can đảm tìm đến để mua các loài xạ hương, chồn trắng, trầm hương hay khỉ vàng nuôi làm cảnh. Đến năm thứ ba, anh bắt đầu hiểu rằng anh phải quay về, anh cần phải quay về mảnh

đất thù nghịch đã từng là tổ quốc của anh. Anh phải quay về Hà nội, cái thành phố địa ngục mà anh ngỡ không bao giờ còn nhìn thấy. Bởi lịch sử nào cũng phải chết trong lãng quên và câm lặng. Ở giữa vùng núi non mù mịt này, giữa đám dân nói một thứ tiếng khác sống một nền văn hoá khác, dầu anh có viết cả ngàn trang giấy cũng không ai thèm đọc , chẳng ai thèm biết tới và như thế, cuộc chạy trốn của anh là vô nghĩa. Anh kéo dài cuộc sinh tồn này là để rửa hận nhưng sau cùng chính cuộc sinh tồn ấy dìm anh vào một đời sống tăm tối vô dụng.

Vậy thì, anh ra đi để còn có ngày về. Anh phải về chính mảnh đất đã diễn ra tội ác, nơi linh hồn những người ruột thịt chờ đợi anh...

Trước đây, để sống anh đã ra đi bằng mọi giá. Giờ đây, để trả thù anh cũng phải quay về bằng mọi cách. Quay về ! Quay về ! Quay về !

Quyết định như vậy, nhưng anh phải chờ năm năm sau, An mới tìm được lối thoát. Đó là khi những tốp lính Việt nam đầu tiên vượt Trường sơn để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh hoành tráng mà mục tiêu của nó là giải phóng Sài-gòn và sau đó, kéo dài đường biên giới cho đến tận Xiêm rệp. Năm ấy là năm Quý Mão, mùa xuân năm Quý Mão. Đến mùa thu, máy bay đối phương bắt đầu săn tìm quân tiên phong trên các cánh rừng dọc Trường sơn. Bom bắt đầu dội xuống những khu rừng bị đánh dấu nghi hoặc trên bản đồ là có quân Bắc Việt chui lủi hoạt động. Bởi nước Mỹ là kho vũ khí khổng lồ nên quân đội Sài-gòn có thể ném bom một cách hào phóng, kiểu như các công tử tỉnh Bạc Liêu thời xa xưa ném tiền vào canh bạc. Nhờ cơ may đó, anh tìm gặp được một tốp lính bị bom diệt trọn gói, và trở lại quân đội dưới tấm thẻ quân nhân: Thượng sĩ bộ binh Hoàng An, dân tộc Tày, quê Đồng Mỏ, Lạng sơn.

Anh được sáp nhập vào đội quân gom góp từ tất cả những tiểu đoàn, đại đội, trung đội bị xoá sổ rồi sau đó không lâu, lại sáp nhận vào một cánh quân khác. Trú ẩn dưới cái tên của một người đã chết, anh hiểu rằng cuộc sống của anh giờ đây chỉ còn lại một mục tiêu. Ngày đó, anh thề trước đất trời:

Nông văn Thành đã chết vĩnh viễn.

Chí văn Thành cũng vĩnh viễn chết theo.

Chỉ còn lại trên cõi đời một kẻ tên là Hoàng An mà thôi.

(Hết) NGƯỜI ANH EM ĐỒNG HAO KHÔNG BIẾT MẶT

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire